Một số vi phạm cần rút kinh nghiệm trong kiểm sát giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
10:58 29/04/2025

Quá trình kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án “ Tranh chấp quyền sử dụng đất ” giữa nguyên đơn ông Phạm Hồng L, bà Nguyễn Thị V với bị đơn bà Phạm Thị H do Tòa án nhân dân thị xã A xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh nhận thấy cấp sơ thẩm có một số vi phạm, cụ thể:

Thứ nhất, bỏ sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Phạm Hồng L cung cấp cho HĐXX Quyết định cấp đất làm nhà ở cho hộ gia đình số 81/QĐ - UB ngày 29/6/1988 của UBND thị trấn C cấp đất cho ông Phạm Trọng T (bố đẻ ông L), Ông T có 6 người con. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông L, bà V với bà H có gắn với quyền và lợi ích của ông T và các con ông T. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định tư cách tham gia tố tụng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đối với ông T và những người con của ông T là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, vi phạm quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Thứ hai, thụ lý yêu cầu của nguyên đơn chưa chính xác: Phần diện tích đất 380,4m 2 đất ông L, bà V chưa có tranh chấp với bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào và không bị xâm phạm về quyền và lợi ích đối với phần diện tích đất 380,4m 2 . Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu nguyên đơn ông Phạm Hồng L, bà Nguyễn Thị V sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà tiến hành thụ lý giải quyết yêu cầu của ông Phạm Hồng L, bà Nguyễn Thị V về việc công nhận toàn bộ diện tích 583m 2 đất (trong đó gồm cả diện tích đất 380,4m 2 đất không tranh chấp với bà H) là trái với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.

Thứ ba, giải quyết vượt quá phạm vi thẩm quyền luật định: UBND phường B chỉ có công văn trình bày quan điểm, không yêu cầu Toà án thụ lý yêu cầu độc lập nhưng tại phần quyết định của bản án sơ thẩm Toà án vẫn giải quyết “Giao cho UBND phường B quản lý, giải quyết theo quy định của pháp luật đối với phần diện tích đất 203m 2 là vi phạm nguyên tắc tố tụng về thụ lý yêu cầu và phạm vi giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án dân sự theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với phần diện tích đất 203m 2 đang tranh chấp, Toà án cấp sơ thẩm xác định không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy định Luật đất đai 2013, phần diện tích đất này đương nhiên thuộc quyền quản lý chung của UBND phường B, tuy nhiên hộ gia đình đang quản lý, sử dụng trực tiếp là nguyên đơn ông Phạm Hồng L, bà Nguyễn Thị V, vì vậy trường hợp Tòa án giao đất cho chính quyền địa phương phải có đơn yêu cầu độc lập và đảm bảo có căn cứ pháp luật. Mặt khác, việc thu hồi đất đã được chính quyền địa phương cấp phải theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Thứ tư, Bản án bác yêu cầu của bị đơn bà Phạm Thị H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc T, bà Phạm Thị O, bà Phạm Thị N, bà Phạm Thị B là chưa đảm bảo căn cứ. Mặt khác, việc Toà án cấp sơ thẩm giao 203m 2 đất cho UBND phường B quản lý nhưng không giải quyết tài sản trên đất, không tính công sức tôn tạo, nghĩa vụ đóng thuế của ông L, bà V từ năm 2002 đến nay là không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Do có những vi phạm nêu trên, ngày 09/4/2025, Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung./.

- Phòng 9-

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP