Tạm đình chỉ trong thủ tục tố tụng dân sự được hiểu là việc Tòa án tạm ngừng giải quyết vụ án khi có một trong các căn cứ như: Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án … nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án có căn cứ, đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Vậy đối với việc dân sự, chúng ta có được áp dụng các quy định về t ạm đình chỉ trong thủ tục giải quyết đơn yêu cầu của các đương sự hay không? Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin đưa ra hai quan điểm để bạn đọc cùng thảo luận.
Tình huống: Bà Dương Thị T làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đối với bà Dương Thị H. Quá trình giải quyết việc dân sự, bà T yêu cầu Toà án tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với bà H để có căn cứ xác định bà H có mất năng lực hành vi dân sự hay không. Sau khi đã kéo dài thời hạn giải quyết 01 tháng để chờ kết luận của trung tâm giám định pháp y tâm thần đối với bà H nhưng vẫn chưa có kết quả, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ xét đơn yêu cầu của bà T với lý do: cần chờ kết quả giám định của trung tâm giám định pháp y.
- Quan điểm thứ nhất: Việc Tòa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết việc Dân sự nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 214 và Điều 361 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).
Tại điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS quy định về căn cứ để Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: “ Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án ”.
Theo quy định tại Điều 361 BLTTDS về phạm vi áp dụng trong phần thủ tục giải quyết việc Dân sự quy định: “Những quy định của Phần này được áp dụng để giải quyết việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27, các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29, các khoản 1, 2, 3 và 6 Điều 31, các khoản 1, 2 và 5 Điều 33 của Bộ luật này. Trường hợp Phần này không quy định thì áp dụng những quy định khác của Bộ luật này để giải quyết việc dân sự” .
Mặc dù trong Phần thủ tục giải quyết việc dân sự của BLTTDS không có điều luật quy định về tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự, tuy nhiên, việc Tòa án vận dụng quy định tại Điều 361 BLTTDS nêu trên là cần thiết và phù hợp với sự đa dạng, phức tạp của các quan hệ pháp luật xảy ra hiện nay. Trong nội dung tình huống nêu trên, để có căn cứ chứng minh người bị yêu cầu mất năng lực hành vi dân sự; Tòa án đã tiến hành trưng cầu giám định theo yêu cầu của người yêu cầu; nhưng do nguyên nhân khách quan hết thời hạn kéo dài, Tòa án vẫn chưa nhận được kết luận của cơ quan chuyên môn. Trong trường hợp này, người yêu cầu không rút đơn yêu cầu, Tòa án cũng chưa thu thập được đầy đủ tài liệu để mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Do đó, việc Tòa án vận dụng linh hoạt quy định tại Điều 361 BLTTDS để tạm đình chỉ trong trường hợp này là hợp lý, để Toà án có thời gian thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết để giải quyết đơn yêu cầu của đương sự.
- Quan điểm thứ hai: Việc Tòa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự như trên là không có căn cứ, vì theo quy định chung về giải quyết việc dân sự, thủ tục xét đơn yêu cầu không có quy định về việc tạm đình chỉ, do đó, không thể vận dụng tương tự các quy định của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để giải quyết việc dân sự.
Tác giả đồng tình với cách hiểu của quan điểm thứ hai bởi vì: Theo quy định tại Điều 366 BLTTDS, trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, khi hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì Tòa án phải ban hành một trong hai quyết định là quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu hoặc quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, ngoài ra không đề cập đến vấn đề tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự. Vì vậy, chúng ta chỉ được phép áp dụng các quy định trong giải quyết vụ án dân sự cho giải quyết việc dân sự trong trường hợp thủ tục giải quyết giữa vụ án dân sự và việc dân sự có điểm tương đồng, giống nhau. Mặt khác, hiện nay trong hệ thống các biểu mẫu về giải quyết việc dân sự ban hành kèm Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09/08/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân t ối cao không có biểu mẫu để áp dụng đối với việc tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự nên việc Tòa án ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự căn cứ vào biểu mẫu nào để thực hiện?
Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn hiện nay, tác giả nhận thấy cần phải bổ sung thêm quy định về việc tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự là một phần của thủ tục chung trong việc xét đơn yêu cầu tại Điều 366 BLTTDS, tạo cơ sở để vận dụng quy định tại Điều 214 và Điều 361 BLTTDS, từ đó xác định các căn cứ phù hợp để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự. Đồng thời, cần ban hành thêm biểu mẫu Quyết định tạm đình chỉ xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự để tạo sự thống nhất về mặt nội dung, hình thức trong việc áp dụng pháp luật.
Trên đây là quan điểm của cá nhân tác giả, xin ý kiến trao đổi của bạn đọc và đồng nghiệp nhằm hiểu đúng và áp dụng thống nhất quy định của pháp luật./.
Hoàng Trung - VKSND khu vực 1 Hà Tĩnh