Một số vấn đề rút kinh nghiệm vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất" bị cấp phúc thẩm hủy án để xét xử lại.
16:25 24/06/2016

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự  theo thủ tục phúc thẩm vụ kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa: Nguyên đơn bà Phan Thị Thông, sinh năm 1956 với bị đơn ông Phạm Ngọc Mãi, sinh năm 1944. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh thấy quá trình giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm về tố tụng và nội dung dẫn đến bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy án, cụ thể:

Nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm.

Thửa đất số 670, 671B thuộc tờ bản đồ số 4 bản đồ giải thửa 299 tại xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có nguồn gốc là đất hương hỏa của ông Phan Thanh Giản và bà Phan Thị Giản. Khoảng năm 1957, gia đình đưa một phần đất giữa đất vườn vào Hợp tác xã Đại Long để sản xuất. Năm 1968 đế quốc Mỹ ném bom, vườn bị tàn phá nghiêm trọng, Hợp tác xã không sản xuất được nên trả lại đất cho gia đình san lấp, quản lý, sử dụng. Năm 1977 bà Phan Thị Giản cho gia đình ông Phạm Ngọc Mãi - người bà con vào mượn đất ở nhờ trong vườn, do gia đình bà Phan Thanh Giản không ở trên mảnh vườn này nên mặc dù thời gian đã lâu, gia đình bà Giản vẫn cho ông Phan Ngọc Mãi mượn ở mà không đòi lại. Quá trình sinh sống lợi dụng thời điểm bà Giản đi ở với con, gia đình ông Mãi đã có hành vi lấn chiếm vườn  bà hơn 1.400m 2 . Ngày 28/9/1998, gia đình ông Phạm Ngọc Mãi  được UBND huyện Hương Sơn cấp 600m 2 đất thuộc thửa số 670; gia đình bà Phan Thanh Giản được cấp 670m 2 đất vườn thuộc thửa 671B. Gia đình ông Phạm Ngọc Mãi được UBND huyện Hương Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gia đình bà Giản không được biết. Mặt khác,  thửa đất số 671B không có tên trên thực tế mà mà chính là thửa số 671, diện tích 1.980m2. Từ khi phát hiện gia đình ông Mãi lấn chiếm vườn ( trừ phần đất đã được cấp bìa đỏ), anh chị em con bà Giản đã nhiều lần gặp ông Mãi để bàn bạc, xác định ranh giới, diện tích đất giữa hai gia đình nhưng không có kết quả. Do đó bà Phan Thị Thông (con bà Giản) cùng chị em khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc gia đình ông Phạm ngọc Mãi phải trả lại 1.030, 51m 2 diện tích đất vườn đã lấn chiếm.

Bản án sơ thẩm số 05 ngày 05/11/2015 Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn đã Áp dụng: Điều 256,258, Bộ luật dân sự; Khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013, xử: Buộc ông Phạm Ngọc Mãi và bà Lê Thị Ba phải trả lại cho những người thừa kế của bà Phan Thị Giản bao gồm các ông bà: Phan Thị Thông, Phan Thị Lựu, Phan Thanh Minh, Phan Thị Thủy, Phan Thị Mỹ, Võ Thị Minh diện tích đất vườn 1.030,51m 2 tại thửa số 671 (671B), tờ bản đồ số 4, giải thửa 299 tại xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh  Hà Tĩnh. Ông Phạm Ngọc Mãi và bà Lê Thị Ba phải thu hoạch, tháo dỡ các tài sản  thuộc quyền sở hữu của mình có trên diện tích đất nói trên  để trả lại cho chủ sử dụng.Tạm giao phần đất trên cho các ông, bà Phan Thị Thông, Phan Thị Lựu, Phan Thanh Minh, Phan Thị Thủy, Phan Thị Mỹ, Võ Thị Minh quản lý và chịu trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Diện tích, ranh giới phần đất trên được xác định bởi các đoạn thẳng  nối liền các điểm FGHLMNO thể hiện tại sơ đồ đo vẽ  kèm theo bản án.

Vụ án đã được Viện KSND tỉnh kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, với lý do: bỏ sót người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án; quá trình thu thập tài liệu chứng cứ, còn có nhiều mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án nhưng chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ. Ngày 02/03/2016 Tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử phúc thẩm, hủy bản án dân sự nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

Về thủ tục tố tụng : UBND xã Sơn Long; UBND huyện Hương Sơn là cơ quan quản lý đất đai, phải có nghĩa vụ làm rõ vì sao thửa đất 671 lại tách thành thửa 671B, 670; quá trình quản lý đất đai của thửa đất 671 và việc kê khai diện tích cấp  quyền sử dụng đất của đương sự như thế nào; tại sao lại có sự biến động về số thửa, diện tích đất và người quản lý sử dụng đất; trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự. Nhưng quá trình giải quyết vụ kiện, Tòa án cấp sơ thẩm  không đưa UBND xã Sơn Long, UBND huyện Hương Sơn vào tham gia tố tụng là bỏ sót người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Về nội dung giải quyết : Quá trình thu thập tài liệu chứng cứ, còn có nhiều mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án nhưng chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ để phân tích, đánh giá chứng cứ làm rõ mâu thuẫn, cụ thể :

Tại trích lục bản đồ 299 và sổ mục kê do Phòng tài nguyên môi trường UBND huyện Hương Sơn cung cấp, phản ánh diện tích đất 1.980m 2 đang tranh chấp thuộc thửa đất số 671, tờ bản đồ số 4 tại xóm 3, xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là đất hoang do Hợp tác xã Đại Long quản lý. Thửa đất của bà Phan Thị Giản được giao quản lý sử dụng thời kỳ này là số thửa 709, diện tích 820m 2 , thửa đất của ông Phạm Ngọc Mãi là số thửa 760, diện tích 1.376m 2 . Như vậy, thời kỳ này bà Phan Thị Giản đã được Hợp tác xã cấp quyền sử dụng đất, nhưng không phải thửa đất 671 mà là thửa 709, diện tích 820m 2 ; còn ông Phạm Ngọc Mãi được cấp quyền sử dụng đất tại số thửa 670, diện tích 1.370m 2 . Từ dữ liệu trên cho thấy từ năm 1984 khi lập bản đồ 299 gia đình ông Phạm Ngọc Mãi đã được nhà nước thừa nhận quyền quản lý thửa đất số 670, tờ bản đố số 4 diện tích 1.370m 2 , còn thữa số 671 hồ sơ địa chính không phản ánh chủ sử dụng đất mang tên bà Phan Thị Giản mà là đất hoang do Hợp tác xã Đại Long quản lý. Tại sổ bộ thuế nhà nước xã Sơn Long năm 1993 cũng thể hiện ông Phạm Ngọc Mãi đóng thuế đất ở, đất vườn trên tổng diện tích 1.576m, bà Phan Thị Giản đóng thuế đất vườn trên diện tích 820m 2 , là phù hợp diện tích đất ông Phạm Ngọc Mãi và bà Phan Thị Giản  được quản lý sử dụng thể hiện tại bản đồ 299 và sổ mục kê về quản lý đất đai. Như vậy tại hồ sơ không có tài liệu nào phản ánh  thửa đất số 671, xóm 2 xã Sơn Long, huyện Hương Sơn là đất đã cấp cho bà Phan Thanh Giản quản lý, sử dụng.

Tại công văn số 99 ngày 25/8/2015 của Phòng Tài nguyên môi trường UBND huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, phản ánh " Thửa đất số 671B, tờ bản đồ số 4 theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đăng ký tên chủ sử dụng Phan Thị Giản với diện tích 670m 2 đất vườn. Thửa đất 671B và thửa 671 là cùng một thửa đất nhưng thửa 671B là một phần trong thửa 671". Như vậy đến năm 1998, khi được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Phan Thị Giản mới có tên chủ sử dụng đất trong thửa 671, nhưng chỉ được cấp một phần diện tích 670m 2 trong thửa số 671.

Tại hồ sơ và các lời khai của bà Phan Thị Thông, bà Phan Thị Thủy đều thừa nhận, khoảng năm 1957 gia đình bà đưa một phần đất giữa vườn vào Hợp tác xã Đại Long để sản xuất, năm 1968 do đế quốc Mỹ ném bom, vườn bị tàn phá, hợp tác xã không sản xuất được nên trả đất lại cho gia đình bà quản lý, sử dụng. Tuy nhiên bà Thông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc Hợp tác xã Đại Long đã trả lại diện tích đất trên cho gia đình bà, để khẳng định thửa đất trên thuộc quyển quản lý, sử dụng hợp pháp của gia đình bà.

Quá trình thu thập tài liệu giải quyết vụ án, có sự mâu thuẫn về diện tích đất, cụ thể: Tại trích lục bản đồ 299 do Phòng tài nguyên môi trường UBND huyện Hương Sơn cung cấp, thì số thửa 671 có diện tích 1.980m 2 , số thửa 670 có diện tích 1.370 m 2 . Nhưng tại trích lục bản đồ 299 do UBND xã Sơn Long, huyện Hương Sơn cung cấp, thì số thửa 671, tờ bản đồ số 4 có diện tích 670m 2 , số thửa 670, tờ bản đồ số 4 có diện tích 600m 2 . Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập hồ sơ cấp đất của ông Phạm Ngọc Mãi, để làm rõ vì sao tại bản đồ 299 và sổ mục kê gia đình ông Phạm Ngọc Mãi có diện tích đất 1.376m 2 nhưng đến năm 1998 khi được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì gia đình ông chỉ được công nhận  600m 2 diện tích đất trong tổng số 1.376m 2 nói trên.

Với những căn cứ trên chưa đủ cơ sở vững chắc để xác định diện tích đất 1.030,51m 2 hiện đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Phan Thị Giản, của gia đình ông Phạm Ngọc Mãi hay đang do UBND xã quản lý( trước đây là HTX Đại Long quản lý). Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, người làm chứng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 388502, số thửa 671B, thuộc bản đồ số 4, diện tích 670m 2 đất vườn của bà Phan Thị Giản để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị Thông là thiếu khách quan.

Mặt khác, qua xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/7/2015, Tòa án cấp sơ thẩm xác định trên diện tích đất đang tranh chấp (diện tích 1.030,51m 2 ) gia đình ông Phạm Ngọc Mãi có trồng một số cây Sung, Bạch Đàn, Xoan, Tre. Nhưng tại phần quyết định của bản án Tòa án cấp sơ thẩm  buộc bị đơn phải thu hoạch, tháo dỡ các tài sản trên đất để trả lại đất cho chủ sử dụng mà  không xem xét về công sức tôn tạo làm tăng giá trị của đất, cây mà người phải trả đất đã trồng, là chưa đảm bảo quyền lợi của  bị đơn theo quy định tại Khoản 2, Điều 166 Luật đất đai 2013.

Các vi phạm nêu  trên của Tòa án cấp sơ thẩm dẫn đến việc nhận định và quyết định giải quyết tranh chấp thiếu khách quan, chưa chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của đương sự. Vì vậy, cấp phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm số 05/2015/DSST ngày 05/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.

Dương Hiền – P9

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP