Luật tố tụng hành chính năm 2015 (Luật TTHC) và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án (Nghị định 71/2016) ra đời và có hiệu lực thi hành, đã góp phần vào việc hoàn thiện các chế định về thi hành án hành chính, như: Thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính; biện pháp xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án hành chính.., bảo đảm tính ổn định, thông suốt và hiệu lực của nền hành chính quốc gia.
Tuy nhiên, do một số quy định của Luật TTHC và Nghị định 71/2016 chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn nên còn có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, cụ thể:
1. Về tổ chức thực hiện thi hành án hành chính.
Quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát thi hành án hành chính, cho thấy Ủy ban nhân dân (UBND) hoặc Chủ tịch UBND các cấp thường là chủ thể phải thi hành các bản án, quyết định hành chính của Tòa án.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi các chủ thể nói trên không tự nguyện thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 311 Luật TTHC và khoản 1 Điều 10 Nghị định 71/2016, thì các cơ quan tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp, nhất là cấp huyện sẽ gặp khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cơ quan mình mà Luật TTHC và Nghị định đã quy định, cụ thể: Việc ra văn bản thông báo tự nguyện thi hành án, trong đó phải quy định trách nhiệm tổ chức thi hành án, việc xử lý trách nhiệm nếu không chấp hành án; về việc Chấp hành viên lập biên bản làm việc với người phải thi hành án để yêu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định theo quy định tại Điều 14 Nghị định 71/2016. Hay việc cơ quan, cá nhân phải thi hành thực hiện quyết định buộc thi hành án hành chính của cơ quan Tòa án quy định tại Điều 312 Luật TTHC, việc thực hiện kiến nghị của Viện kiểm sát quy định tại Điều 315 Luật TTHC, khi mà các chế tài đối với các trường hợp không chấp hành các quyết định, kiến nghị nêu trên chưa được quy định đủ mạnh, khả thi để bảo đảm việc chấp hành pháp luật của người phải thi hành án.
2. Về kiến nghị của Viện kiểm sát.
Theo quy định tại Điều 315 Luật TTHC, thì trong quá trình kiểm sát thi hành án hành chính, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thi hành án hành chính và cơ quan tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án để có biện pháp thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy vậy, Điều luật (Điều 315) cũng như Nghị định 71/2016 chưa quy định cơ quan, tổ chức bị kiến nghị có trách nhiệm trả lời, cũng như thời hạn trả lời về kiến nghị của Viện kiểm sát hay báo cáo kết quả thực hiện các nội dung kiến nghị của Viện kiểm sát.
Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 7 và khoản 3 Điều 8 Nghị định 71/2016 đều quy định việc xem xét xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án theo kiến nghị của cơ quan Thi hành án dân sự, cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án hành chính và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị trong thời hạn 5 ngày làm việc.
3. Về gửi thông báo về việc tự nguyện thi hành.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 71/2016, thì trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm ra văn bản thông báo về việc tự nguyện thi hành án gửi người phải thi hành án. Trong đó, nội dung văn bản thông báo phải nêu rõ thời hạn tự nguyện, trách nhiệm tổ chức thi hành án, việc xử lý trách nhiệm nếu không chấp hành án.
Tuy nhiên, Nghị định không quy định trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự sau khi ban hành văn bản thông báo về việc tự nguyện thi hành án thì phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, người được thi hành án, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án để làm căn cứ kiểm sát, theo dõi thời hạn tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án. Bởi vì người phải thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp đều thuộc chủ thể mà Viện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định tại Điều 315 Luật TTHC.
Từ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, đề nghị liên ngành cấp trên nghiên cứu, sớm kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi bổ sung Luật và các văn bản hướng dẫn về công tác thi hành án hành chính, nhất là sớm triển khai xây dựng và ban hành Luật Thi hành án hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, cũng như nâng cao kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan nhà nước trong hoạt động thi hành án hành chính, đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật./.
Nguyễn Thế Hoàng