Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của kiểm sát viên
15:10 10/09/2015
Luận tội là thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực tố tụng hình sự ở trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau mà khái niệm luận tội cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa chung nhất “Luận tội là phân tích, cân nhắc để xét tội”[1]. Theo nghĩa pháp lý đơn thuần “Luận tội là phân tích tội trạng, đề nghị kết tội bị cáo”.[2]

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thì luận tội được hiểu: Là văn bản do Viện kiểm sát xây dựng trên cơ sở bản cáo trạng và những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong luận tội, Kiểm sát viên đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng đã truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội bị cáo thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.

Luận tội là văn bản nghiệp vụ do Kiểm sát viên (KSV) viết để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên toà ( bản dự thảo luận tội chỉ trình lãnh đạo Viện hoặc thủ trưởng đơn vị duyệt và cho ý kiến chỉ đạo đối với những vụ án điểm, án phức tạp còn có những ý kiến khác nhau và những vụ án xét xử lưu động ). Luận tội được viết trên cơ sở bản cáo trạng và những tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác đưa ra trong phần xét hỏi. Sau khi kết thúc phần xét hỏi, trước khi bước vào phần tranh luận, KSV trình bày bản luận tội đã được chỉnh sửa, bổ sung trong phần xét hỏi. Luận tội được hoàn thiện sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm và được lưu giữ trong hồ sơ kiểm sát.

Trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khi KSV trình bày luận tội là lúc mở đầu cho giai đoạn tranh luận tại phiên toà. Đây là trình tự thủ tục quan trọng bắt buộc thể hiện rõ nét nhất vị trí, vai trò, kỹ năng nghiệp vụ và bản lĩnh của KSV Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Lời luận tội cũng chính là quan điểm của VKS đối với hành vi phạm tội, người phạm tội, trên cơ sở đó mà những người tham gia tố tụng sẽ thực hiện các quyền tố tụng của bản thân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Luận tội là một trong những hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) do Kiểm sát viên thực hiện tại phiên toà hình sự sơ thẩm, là sự buộc tội chính thức của VKS đối với bị cáo, thể hiện quan điểm của VKS đối với việc giải quyết vụ án hình sự.

Như vậy, bản chất của luận tội không chỉ là các luận cứ, luận điểm nhằm buộc tội bị cáo mà trong đó còn đề cập đến những nội dung gỡ tội cho bị cáo, nhằm bảo vệ sự đúng đắn của cáo trạng. Trên cơ sở đó, KSV đưa ra các kết luận, yêu cầu và đề nghị cụ thể với Hội đồng xét xử về tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự (BLHS), mức hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp cần áp dụng đối với bị cáo.

1. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng hoạt động luận tội theo tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.

Vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết để có thể đáp ứng được với sự đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay. Vấn đề này đã chính thức được ghi nhận bắt đầu từ Nghị quyết Trung ương 8 - khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 - khoá VIII và tiếp tục được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, lần thứ XI, đặc biệt thể hiện tập trung nhất trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có nội dung trọng tâm là: “ Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ”. Trên cơ sở đánh giá kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử (THQCT và KSXX) các vụ án hình sự, VKSND các địa phương cần khẩn trương khắc phục những tồn tại, hạn chế trong từng hoạt động công tác của mình, đồng thời tiếp tục quán triết tinh thần của các Nghị quyết Trung ương về công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới. Đây là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước nói chung và của các cơ quan Tư pháp nói riêng, trong đó có VKSND, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.

Trong những năm qua, mặc dù số lượng các vụ án hình sự mà VKSND tiến hành THQCT và KSĐT, KSXX có xu hướng tăng hàng năm, nhưng được sự quan tâm của Lãnh đạo VKSND tối cao cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể đội ngũ cán bộ, KSV nên chất lượng công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự sơ thẩm luôn đảm bảo đúng quy định của pháp luật, điều đó đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân và ngày càng củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp.

Từ năm 2008 đến nay, VKSND đã triển khai nhiều biện pháp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; tập trung tổ chức quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương của Ðảng, Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong đó, công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp tiếp tục có chuyển biến tích cực; chất lượng, hiệu quả các lĩnh vực hoạt động của Ngành được nâng cao, đặc biệt trong công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự sơ thẩm. Theo số liệu thống kê của VKSND tối cao, mặc dù hàng năm số vụ án mà VKS các cấp tiến hành kiểm sát điều tra tăng lên nhưng số vụ truy tố luôn đạt tỷ lệ cao. Tỷ lệ các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, số bị can bị đình chỉ điều tra vì không phạm tội và số bị cáo VKS truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội hàng năm đều giảm. Từ năm 2008 đến hết năm 2012, VKSND đã truy tố, Tòa án cùng cấp đã xét xử 259.762 vụ, với 445.457 bị cáo [3] . Ngoài số bị cáo bị Toà án tuyên không phạm tội (119 bị cáo), còn lại tất cả các bị cáo đều bị kết án với các mức hình phạt khác nhau, hầu hết đều đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hạn chế ở mức thấp nhất các trường hợp oan sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác THQCT và KSXX của ngành Kiểm sát có chuyển biến mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ chất lượng nghiên cứu hồ sơ, chất lượng THQCT và KSĐT, KSXX các vụ án hình sự nói chung và chất lượng luận tội, tranh luận nói riêng của KSV các cấp tại phiên toà hình sự sơ thẩm ngày một được nâng lên.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót nhất định trong quá trình THQCT và KSXX của Kiểm sát viên, dẫn đến chất lượng bản luận tội chưa cao, thậm chí có một số trường hợp do KSV không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chưa đánh giá hết chứng cứ, tình tiết của vụ án, không tập trung chú ý trong phần xét hỏi, không kịp thời bổ sung, chỉnh sửa luận tội theo diễn biến thực tế tại phiên toà... dẫn đến không bảo vệ được cáo trạng bị Toà án tuyên không phạm tội. Mặt khác, trong hơn bốn năm qua vẫn còn 11.185 vụ án bị Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong thực tế còn không ít phiên toà vai trò mờ nhạt của KSV lại thể hiện tập trung nhất ở hoạt động luận tội và tranh luận nên chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế gắn với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, đồng thời, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động luận tội của KSV thời gian vừa qua, đòi hỏi ngành KSND phải có sự đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực công tác nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong đó, việc tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng THQCT và  KSXX nói chung và nâng cao chất lượng, kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV nói riêng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong thời gian tới là cấp thiết, khách quan.

2. Một số gải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử vụ án hình sự sơ thẩm

Thứ nhất, đối với Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.

- Trước hết , mỗi KSV cần phải tích cực tự nghiên cứu, học tập để nắm vững các quy định của pháp luật, nhất là pháp luật về hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các kiến thức pháp luật có liên quan; kịp thời cập nhật các kiến thức, thông tin trong các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật mới ban hành, các văn bản tổng kết, rút kinh nghiệm của Ngành, tích cực tham dự các vụ án điểm, phiên toà rút kinh nghiệm...Đồng thời, KSV phải nắm vững các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì chỉ khi KSV nắm chắc những gì mình viết, mình nói là đúng thì mới nâng cao được tính chủ động, tự tin khi viết luận tội, trình bày luận tội và tranh luận, đối đáp tại phiên toà hình sự.

-  Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, KSV cần nắm vững các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm, phải xem xét, đánh giá, phân tích một cách toàn diện, khách quan cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội cũng như các tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên phải tự đặt mình vào vị trí của người bào chữa để đánh giá, xem xét kỹ các chứng cứ chứng minh không phạm tội, chứng minh các tình tiết giảm nhẹ; tự đặt ra các giả thuyết hoặc tình huống mà người bào chữa, bị cáo, bị hại, người có liên quan...có thể đưa ra tại phiên toà, qua đó kiểm tra lại các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án xem đã đủ và có cơ sở vững chắc để bác bỏ các giả thuyết đó chưa? Nếu còn vấn đề nghi ngờ hoặc chưa thực sự có niềm tin nội tâm, thì KSV cần báo cáo và xin ý kiến của lãnh đạo, ý kiến góp ý của tập thể hoặc báo cáo với lãnh đạo để xin ý kiến lãnh đạo VKS cấp trên trước khi tham gia THQCT và KSXX tại phiên toà.

-  Kiểm sát viên cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng, nghiệp vụ về THQCT và KSXX tại phiên toà như: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng kiểm tra, đánh giá chứng cứ, kỹ năng xây dựng dự thảo luận tội, kỹ năng trình bày lời luận tội, kỹ năng diễn đạt, đối đáp, tranh luận; đặc biệt là khả năng phản ứng linh hoạt trước các tình huống, vấn đề mới phát sinh tại phiên toà. Để rèn luyện được các kỹ năng nghiệp vụ này, lãnh đạo các VKS địa phương cần quy định mỗi tuần dành một thời gian nhất định để KSV có kinh nghiệm trong đơn vị trao đổi, truyền đạt kỹ năng, kinh nghiệm về hoạt động luận tội của họ đã tích luỹ được cho các đồng nghiệp. Đồng thời, đây cũng là thời gian hướng dẫn, kèm cho các KSV mới để họ ngày càng vững vàng hơn trong công tác THQCT và KSXX, đặc biệt là trong hoạt động luận tội. Mặt khác, muốn thuyết phục được người nghe và nâng cao được chất lượng luận tội tại phiên toà hình sự thì KSV cần phải thể hiện sự ứng xử có văn hoá trong thái độ, trong cách sử dụng từ ngữ; trong cách xưng hô... tại phiên toà; bảo đảm tôn trọng sự điều khiển của Chủ toạ phiên toà, tôn trọng quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, nhất là những người trực tiếp tham gia tranh luận, đối đáp với mình.

- Trong quá trình THQCT và KSXX tại phiên toà hình sự sơ thẩm, KSV cần chú ý và tập trung theo dõi, ghi chép các diễn biến diễn ra tại phiên toà, chủ động tham gia xét hỏi để góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án cũng như để củng cố vững chắc cơ sở buộc tội và các căn cứ gỡ tội; ghi chép nhanh nội dung xét hỏi, trả lời và các ý kiến mà bị cáo, người bào chữa, bị hại và những người tham gia tố tụng khác nêu lên, nhất là những ý kiến trái ngược lại với nội dung luận tội của KSV. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng ở giai đoạn này, bởi vì kết quả quá trình thẩm vấn công khai tại phiên toà sẽ giúp KSV hệ thống lại toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên toà, từ đó KSV có thể sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh bản luận tội; việc ghi chép đầy đủ các ý kiến sẽ giúp cho KSV chủ động trong tranh luận, xác định đúng những vấn đề trọng tâm cần phải làm rõ, cần phải trả lời, cần phải tranh luận để bảo vệ quan điểm truy tố, quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, tránh việc mất thời gian, công sức vào các nội dung không liên quan đến vụ án.

-  Kiểm sát viên cần phải tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức VKSND năm 2002, đặc biệt là Quy chế về công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC, ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSND tối cao quy định về trách nhiệm của KSV trong việc xây dựng và trình bày bản luận tội tại phiên toà hình sự.

-  Việc tự rèn luyện nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp đối với KSVND các địa phương là một yêu cầu mang tính thường xuyên, liên tục của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Bởi vì, chỉ khi có ý thức chính trị cao thì KSV mới có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự nói chung và trong hoạt động luận tội tại phiên tòa nói riêng. Chính từ việc thường xuyên rèn luyện ý thức chính trị, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp sẽ giúp cho KSV tránh được những tác động tiêu cực và vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Việc nâng cao ý thức chính trị phải đi đôi với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ KSV. Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.

Thứ hai, đối với lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.

-  Đối với lãnh đạo VKSND, khi phân công THQCT và KSXX các vụ án hình sự, nhất là các vụ án hình sự phức tạp cần xem xét đến trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tế của KSV để có thể phân công cho phù hợp, để vừa bảo đảm được quan điểm truy tố đúng pháp luật, đúng quan điểm của VKS, vừa phát huy được khả năng chuyên môn nghiệp vụ, sở trường của mỗi KSV, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của mỗi địa phương.

- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh cần phải tổ chức các đợt kiểm tra nghiệp vụ đối với cấp quận, huyện. Sau mỗi đợt kiểm tra, Đoàn kiểm tra phải ban hành kết luận cụ thể và có thông báo rút kinh nghiệm chung, đồng thời kết hợp hướng dẫn nghiệp vụ cho các KSV VKSND cấp huyện, kịp thời trả lời các vướng mắc nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp dưới.

-  Viện kiểm sát nhân dân các địa phương cần tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành, cơ quan trên địa bàn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác THQCT và KSXX, như phối hợp liên ngành Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Tòa án cũng như các ngành có liên quan. Trong thời gian vừa qua, VKSND đã thực hiện tốt công tác phối hợp liên ngành trong giải quyết án hình sự; chủ trì cuộc họp thống nhất với Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp trong việc xử lý, giải quyết án trọng điểm, tổ chức đưa ra xét xử lưu động một số vụ án có tính chất điển hình; họp bàn thống nhất đường lối giải quyết những vụ án phức tạp, án kinh tế, án tham nhũng được dư luận xã hội quan tâm.

-  Cần có chính sách khen thưởng động viên kịp thời các điển hình xuất sắc trong công tác THQCT và KSXX, đặc biệt trong hoạt động luận tội, tranh luận tại phiên toà ở VKSND các địa phương. Đồng thời, nghiêm khắc phê bình, chấn chỉnh kịp thời những KSV thực hiện công tác nghiệp vụ yếu kém, có biểu hiện thiếu rèn luyện, tự mãn. Mặt khác, lãnh đạo các VKS địa phương cần tạo cơ hội và các điều kiện để thử thách cho lực lượng cán bộ, KSV trẻ, mạnh dạn giao việc cũng như bổ nhiệm những vị trí phù hợp cho từng người để họ có điều kiện vươn lên, khẳng định mình và đóng góp nhiều hơn cho đơn vị, cho Ngành.

3. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử hình sự sơ thẩm

Một là, Viện trưởng VKSND cấp quận, huyện cần quan tâm hơn nữa đến công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự nói chung và công tác kiểm sát xét xử nói riêng, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng kỹ năng xây dựng dự thảo luận tội, kỹ năng trình bày luận tội và tranh luận, đối đáp của KSV tại phiên tòa. Tùy theo tính chất của từng vụ án cụ thể mà lãnh đạo Viện có sự chỉ đạo, hướng dẫn KSV được giao nhiệm vụ THQCT và KSXX các vụ án hình sự đầu tư thời gian thích hợp để nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, xây dựng dự thảo luận tội một cách kỹ lưỡng, chặt chẽ; khi viết xong bản dự thảo luận tội thì đồng chí Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng phụ trách hình sự có thể duyệt “Dự thảo luận tội” để tránh sai sót, nhầm lẫn không đáng có.

Hai là , lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh và các Phòng nghiệp vụ (Phòng 1, Phòng 2) cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ THQCT và KSĐT, KSXX các vụ án hình sự. Đặc biệt quan tâm, chú ý đến việc truyền đạt, hướng dẫn KSV kỹ năng xét hỏi trực tiếp, kỹ năng xây dựng dự thảo luận tội và phát biểu quan điểm luận tội; kỹ năng đối đáp, tranh luận tại phiên tòa. Thường xuyên thực hiện việc tổ chức các Hội nghị, Hội thảo chuyên đề để tổng hợp, rút kinh nghiệm những việc đã làm được và những vấn đề còn thiếu sót, tồn tại trong công tác này.

Ba là, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hàng năm cần định kỳ mở các buổi Hội thảo, Hội nghị tập huấn về kỹ năng xây dựng Bản luận tội, kỹ năng trình bày, phát biểu luận tội; kỹ năng đối đáp, tranh luận... tại phiên tòa hình sự để các KSV có điều kiện học tập, đúc rút kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng trong quá trình thực hiện hoạt động luận tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Bốn là , Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên chọn một số bản luận tội có chất lượng, cũng như tập hợp những thiếu sót, hạn chế  thường mắc phải của KSV các địa phương trong hoạt động luận tội thời gian vừa qua để thông báo hoặc in thành sách và gửi các VKSND địa phương để cho KSV học hỏi, rút kinh nghiệm.

Năm là, đối với công tác cán bộ, VKSND tối cao cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, trong đó chú ý, quan tâm bồi dưỡng kỹ năng luận tội cho KSV trong toàn ngành, nhằm tiếp tục đẩy nhanh việc tiêu chuẩn hoá cán bộ theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Vụ Tổ chức cán bộ - VKSND tối cao và Phòng Tổ chức cán bộ các VKSND địa phương cần xây dựng chương trình, nội dung đổi mới công tác đào tạo, tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm và điều động cán bộ ngành Kiểm sát; bổ sung thêm biên chế cho các VKS địa phương còn thiếu, đặc biệt các địa phương có số lượng án hình sự lớn, phức tạp; vùng sâu, vùng xa; có phương án sắp xếp, sử dụng cán bộ, KSV theo hướng tạo điều kiện để họ phát huy hết sở trường của mình trong công việc, phù hợp với điều kiện công việc và nhân sự của từng địa phương. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”.

Sáu là, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và Phân hiệu Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Tp. Hồ Chí Minh nghiên cứu chương trình phù hợp để mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về hoạt động luận tội và trong khoá học này, Nhà trường cần phối hợp với lãnh đạo Viện kiểm sát các địa phương mời những cán bộ, KSV có kỹ năng, có kinh nghiệm trong hoạt động luận tội để giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm cho các học viên tham gia các khoá học này.

NGUYỄN VĂN KHOÁT* [4]

[1] Viện Ngôn ngữ học (1988), Từ điển tiếng Việt , NXB Lao động, Hà Nội, tr. 570.

[2] Trường Đại học Hà Nội (2008), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, NXB Thanh niên, tr. 189.

  1. Báo cáo tổng kết ngành Kiểm sát nhân dân các năm 2008, 2009, 2010, 2011 và 2012.

* Thạc sĩ, Phó hiệu trưởng, Phân hiệu Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh.

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP