Thông qua công tác kiểm sát bản án, Phòng THQCT, KSĐT, KSXX sơ thẩm án hình sự về kinh tế, chức vụ, tham nhũng và trật tự xã hội (Phòng 2) - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phát hiện Bản án số 18/2019/HS-ST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, xét xử bị cáo Phạm Lê Huân và đồng phạm phạm tội “Hủy hoại rừng” có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm và phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Lê Huân, cụ thể:
Năm 2009, Vợ chồng Phạm Lê Huân và Phan Thị Tâm được Ban quản lý rừng phòng hộ Sông Tiêm ký Hợp đồng giao khoán khoán 117 ha đất rừng sản xuất tại các Khoảnh 2, 3, 5 - Tiểu khu 229, xã Phú Gia, huyện Hương Khê, Tỉnh Hà Tĩnh theo Nghị định số 135/CP. Đến năm 2014, UBND tỉnh Hà Tĩnh có Quyết định thu hồi đất lâm nghiệp của Ban QLRPH Sông Tiêm để giao lại cho UBND xã Phú Gia quản lý và Ban QLRPH Sông Tiêm đã thông báo cho các hộ nhận khoán đất rừng đến làm việc, thống nhất thanh lý, chấm dứt hợp đồng giao nhận khoán, giải quyết quyền lợi các bên liên quan để chuyển hồ sơ về UBND xã Phú Gia thực hiện phương án giao đất, cho thuê đất gắn với giao rừng, cho thuê rừng, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, hộ Phạm Lê Huân và Phan Thị Tâm chưa đồng ý thanh lý, chấm dứt hợp đồng nhận khoán mà thuê người vào rừng chặt phá gây hậu quả nghiêm trọng. Kết quả điều tra xác định, trong hơn 23 ha rừng đã chặt phá có 41.400 m 2 rừng tự nhiên thuộc Khoảnh 2, 5a - Tiểu Khu 229 xã Phú Gia, mật độ cây gỗ trung bình 230 cây/ha; đường kính gốc cắt trung bình 20,97 cm; chiều cao gốc cắt trung bình 51,3 cm; đường kính D 1.3 trung bình 17,94 cm; chiều cao vút ngọn trung bình 9,67 m; có trữ lượng rừng 29,0 m 3 /ha; đã gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 1.440.720.000 đồng, trong đó giá trị môi trường của rừng tự nhiên được quy hoạch rừng sản xuất là 1.080.540.000 đồng.
Đây là vụ án đồng phạm, có nhiều bị cáo tham gia, diện tích rừng sản xuất bị chặt phá trái phép là 41.400m2, với trữ lượng 120,06m3, gây thiệt hại trị giá tài sản và môi trường là 1.440.720.000 đồng. Trong đó vợ chồng bị cáo Phạm Lê Huân và Phan Thị Tâm là chủ hộ nhận giao khoán rừng theo Nghị định 135 của Chính Phủ từ năm 2009 với tổng diện tích là 117ha (trong đó có rừng tự nhiên). Mặc dù các bị cáo Tâm, Huân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình; biết đây là diện tích rừng đã có quyết định thu hồi của UBND tỉnh Hà Tĩnh để giao cho UBND xã Phú Gia thực hiện phương án giao đất, cho thuê đất gắn với giao rừng, cho thuê rừng, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp; biết rõ không được chặt phá rừng trái phép nhưng các bị cáo Phạm Lê Huân và Phan Thị Tâm đã trực tiếp thuê và chỉ đạo những bị cáo khác chặt phá hết các cây to, nhỏ, kể cả rừng tự nhiên để trồng cây Keo tràm cho gia đình mình. Đến thời điểm hiện nay, toàn bộ diện tích rừng mà hộ gia đình bị cáo Phạm Lê Huân và Phan Thị Tâm nhận giao khoán nói trên vẫn chưa thanh lý được để bàn giao.
Hành vi của Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm đã phạm vào tội “Hủy hoại rừng”, quy định tại khoản 3 Điều 189 BLHS năm 1999, có khung hình phạt tù từ 07 đến 15 năm. Áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội theo khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm được truy tố, xét xử về tội “Hủy hoại rừng” theo khoản 2 Điều 243 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm với tình tiết “Rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2)” (điểm đ). Hành vi chặt phá trái phép 41.400m2/50.000m2 rừng sản xuất của Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm đã hơn ¾ của định lượng của khung hình phạt. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ nào quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; khai báo không thành khẩn. Mặt khác, đây là vụ án mà Chính quyền, nhân dân địa phương rất bức xúc và dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Nhưng bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm (cho rằng việc các bị cáo Tâm, Huân tổ chức trồng Keo tràm trên toàn bộ diện tích rừng bị huỷ hoại, góp phần khắc phục hậu quả thiệt hại về môi trường) là không có căn cứ, vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời xử phạt bị cáo Phạm Lê Huân 03 năm tù là không nghiêm, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo Huân gây ra.
Do có vi phạm nghiêm trọng trong việc việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm và phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Lê Huân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh quyết định kháng nghị đối với Bản án số 18/2019/HS-ST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng không áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo Phạm Lê Huân, Phan Thị Tâm; đồng thời tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Lê Huân ./.
Trần Thị Thùy Lương