Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Hà Tĩnh ( Phòng 9) ban hành kháng nghị phúc thẩm đối với bản án số 04/2019/DSST ngày 09/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê.
16:42 08/05/2019

Thông qua công tác kiểm sát bản án, Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động  - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phát hiện bản án số 04/2019/DSST ngày 09/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, giải quyết  vụ án “ Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Phan Văn Ninh và bà Hoàng Thị Hương ( trú tại: Xóm 6, xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) với bị đơn: ông Võ Văn Tâm và bà Nguyễn Thị Tuyên ( trú tại: Xóm 2, xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) có vi phạm nghiêm trọng trong việc xác minh, thu thập, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 97 và Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể:

1. Chưa xác định chính xác vị trí đất tranh chấp:

- Theo bản đồ thiết kế trồng rừng năm 2000 thì đất tranh chấp thuộc lô số 23, khoảnh 1, tiểu khu 214 có diện tích 1,2 ha. Theo bản đồ đất lâm nghiệp đo đạc năm 2003 và sổ mục kê kèm theo thì diện tích đất tranh chấp thuộc lô số 140, tờ bản đồ số 3, có diện tích 18.410m 2 . Tờ bản đồ số 83 lập năm 2015 thể hiện lô số 31 ( ông Ninh đang sử dụng) có diện tích 8.370,1m 2 ; lô số 34 ( ông Tâm đang sử dụng) có diện tích 30.342,7m 2 . Theo tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thì diện tích đất tranh chấp nằm cả lô 31 và lô 34, tiểu khu 214. Từ kết quả đo đạc của 3 bản đồ nói trên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định ranh giới, tứ cận, sự thay đổi số lô, sự biến động về diện tích  của từng lô đất; việc bàn giao đất trên thực địa cho hộ gia đình ông Phan Văn Ninh và ông Võ Văn Tâm của cấp có thẩm quyền.

- Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác định10.783m 2 đất đang tranh chấp giữa các đương sự thuộc lô số 31 hay lô số 34 hay thuộc cả hai lô; nếu thuộc cả lô số 31 và lô số 34 thì diện tích tranh chấp thuộc mỗi lô là bao nhiêu m 2 ; nằm ở vị trí nào của lô 31 và lô 34; thuộc tiểu khu 214 hay tiểu khu 209? ( nội dung thẩm định, sơ đồ kèm theo biên bản thẩm định ngày 11/7/2017 và bản án sơ thẩm đều không xác định diện tích đất tranh chấp thuộc lô, khoảnh, tiểu khu nào, bản đồ nào đã được đo đạc)

- Bản án sơ thẩm xác định chưa chính xác ranh giới, tứ cận thửa đất tranh chấp với các tài liệu liên quan: Theo đơn khởi kiện, ông Phan Văn Ninh yêu cầu ông Võ Văn Tâm trả đất có tứ cận: phía Đông giáp đất ông Lộc, phía Tây giáp đất ông Tịnh, phía Nam giáp đất ông Tâm, phía Bắc giáp đất ông Hiển; sơ đồ kèm theo biên bản thẩm định ngày 11/7/2017 xác định tứ cận diện tích đất tranh chấp: phía Bắc giáp đất ông Hiển, phía Đông giáp đất ông Tịnh, phía Nam giáp đất ông Tâm, phía Tây giáp đất ông Ninh đang sử dụng; phần quyết định của bản án sơ thẩm xác định: phía Đông giáp đất anh Võ Văn Tâm đang sử dụng, phía Tây giáp đất ông Lê Thanh Tịnh, phía Bắc giáp đất ông Lê Xuân Hiển, phía Nam giáp đất ông Võ Văn Tâm đang sử dụng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 10.783m 2 là không có căn cứ.

2. Về diện tích đất thực tế sử dụng và diện tích đất tranh chấp có chênh lệch, nhưng chưa được làm rõ: Theo kết quả thẩm định tại chỗ, diện tích đất thực tế ông Phan Văn Ninh đang sử dụng không có tranh chấp là 9.380m2 ( diện tích theo tờ bản đồ 83 năm 2015 là 8.370,1m 2 ),Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Võ Văn Tâm lấn chiếm của ông Phan Văn Ninh10.783m 2 . Như vậy, tổng diện tích đất nguyên đơn đang sử dụng và bị lấn chiếm là 20.163m 2 , trong khi diện tích nguyên đơn được giao sử dụng năm 2000 là 12.000m 2 , sổ mục kê bản đồ năm 2015 là 18.410m 2 . Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ về việc tăng diện tích đất nêu trên đã xác định ông Võ Văn Tâm lấn chiếm của ông Phan Văn Ninh 10.783m 2 là chưa đủ căn cứ.

Ngoài ra, việc xác định giá trị tài sản trên đất tranh chấp được thực hiện ngày 18/7/2017 khi cây keo mới 6 tháng tuổi có giá trị 13.900 đồng/cây; tổng trị giá tài sản là 37.557.800 đồng/ 2.702 cây.Tại thời điểm xét xử ( sau 01 năm 08 tháng), giá trị kinh tế của tài sản đã có sự thay đổi nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lấy giá trị tài sản năm 2017 để làm căn cứ giải quyết vụ án là không thỏa đáng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.

Bản án sơ thẩm tuyên xử buộc bị đơn ông Võ Văn Tâm phải trả lại diện tích 10.783m 2 cho nguyên đơn ông Phan Văn Ninh, nhưng không tuyên cụ thể diện tích đất tranh chấp thuộc lô, khoảnh, tiểu khu nào, gây khó khăn cho công tác tổ chức thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án không tuyên nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với các đương sự, cũng như không nêu rõ trong bản án về nghĩa vụ chậm thi hành án là vi phạm điểm c khoản 2 Điều 266 BLTTDS, khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tài chính- Bộ Tư pháp- Viện KSND tối cao- Tòa án ND tối cao hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Do có vi phạm nghiêm trọng như đã nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành quyết định kháng nghị số 21/QĐKNPT-VKS-DS ngày 07/5/2019 đối với bản án sơ thẩm số 04/2019/DSST ngày 09/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm ./.

Phòng 9-Viện KSND Tỉnh

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP