Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị khắc phục vi phạm trong công tác xét xử án hình sự
08:38 24/12/2012
Qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự, trong năm 2012 (từ 01/12/2011 - 10/11/2012) Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành kiến nghị và rút kinh nghiệm trong công tác. Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông tin để các đơn vị, bạn đọc tham khảo:

 

1. Vi phạm trong việc áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự
Bản án số 23 ngày 29/11/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử đối với bị cáo Nguyễn Tiến D phạm tội “ Giết người”. Trong vụ này, vật chứng thu giữ chỉ có 01 cái ghế nhựa bị gãy không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng nói trên. Như vậy, Tòa án áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự làm căn cứ là không chính xác. Vì Điều 41 không qui định tịch thu tiêu hủy vật chứng.
2. Vi phạm trong việc thực hiện qui định của Bộ luật hình sự:
- Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử không ghi rõ họ và tên Hội thẩm nhân dân: Trong việc ban hành các quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm, có 08 quyết định Tòa án nhân dân tỉnh không ghi rõ họ tên Hội thẩm nhân dân là chưa đúng qui định tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ: Họ và tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết nếu có…”.
- Vi phạm về thủ tục bắt đầu phiên tòa: Phiên tòa xét xử sơ thẩm ngày 04/9/2012 đối với vụ án Nguyễn Ngọc L phạm tội “Giết người”, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không giải thích quyền và nghĩa vụ của Luật sư. Như vậy là vi phạm Điều 201 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa”.
- Vi phạm trong việc xác định quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng: Bản án số 24 ngày 04/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử đối với bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Giết người”; Bản án số 28 ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử đối với bị cáo Doãn Văn Đ phạm tội “Giết người”, phần quyết định của các Bản án đều tuyên “Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án” là không chính xác. Vì: “Những người tham gia tố tụng” bao gồm bị cáo, bị hại, người làm chứng… mà người làm chứng không có quyền kháng. Đối với 02 vụ án đều có người làm chứng tham gia tố tụng, Tòa án tuyên như vậy là vi phạm Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Những người có quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ; Người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; Người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; Người được Tòa án tuyên bố là không có tội”.
- Vi phạm về thời hạn gửi bản án: 2 Bản án số 26 ngày 06/9/2012 và Bản án số 27 ngày 07/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh chậm gửi bản án cho Viện kiểm sát quá thời hạn quy định, như vậy là vi phạm Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Điều 220 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Trong thời hạn 10 ngày. Kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiêm sát cùng cấp…”
3. Vi phạm trong việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự:
Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2012/HSST ngày 29/6/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử đối với bị cáo Trần Thị Phương T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Trong vụ án này, bị cáo T chỉ có 1 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại khoản 1 Điều 46 và một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng Tòa án lại áp dụng tại Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 14 năm tù, thấp hơn mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt liền kề (khoản 3 Điều 47 Bộ luật hình sự qui định mức 15 - 20 năm tù). Như vậy là vi phạm qui định tại Điều 47 Bộ luật hình sự “khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 Điều 46; …Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã qui định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật…”.
4. Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự chưa cụ thể, rõ ràng:
Bản án số 09/2012/HSST ngày 28/3/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử đối với bị cáo Xê V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Trọng vụ án này, vật chứng thu giữ gồm có Hêrôin, 01 chiếc tẩu tự chế làm từ quả bầu khô, 01 giấy thông hành của bị cáo: Hội đồng xét xử áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng nhưng không nêu rõ căn cứ điểm, khoản nào của Điều luật (điểm đ, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự qui định tịch thu và tiêu hủy vật chứng).
5. Vi phạm trong việc thực hiện qui định của Bộ luật tố tụng hình sự:
* Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử không ghi họ tên Hội thẩm nhân dân: Trong quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm vụ án Xê V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” không ghi họ tên Hội thẩm nhân dân là chưa đúng với qui định tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Quyết định đưa vụ án ra vụ án ra xét xử phải ghi rõ: Họ tênThẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết…”
* Thủ tục bắt đầu phiên tòa: Phiên tòa xét xử sơ thẩm ngày 30/6/2012 đối với vụ án Nguyễn Thị H cùng đồng bọn, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không giải thích quyền và nghĩa vụ của Luật sư. Có triệu tập Giám định viên đến tham gia phiên tòa nhưng không giải thích quyền và nghĩa vụ của người giám định. Như vậy là vi phạm Điều 201, 203 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo nhanh danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa”. Tại Điều 203 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Nếu có người giám định tham gia phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa…. giải thích quyền và nghĩa vụ của người đó…”.
6.  Một số vi phạm khác:
- Bản án số 27 ngày 07/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh tuyên buộc người đại diện hợp pháp bà Trương Thị L (mẹ của bị cáo Nguyễn L) là người chưa thành niên (16 tuổi 27 ngày) bồi thường cho người bị thiệt hại về những thiệt hại do bị cáo gây ra, nhưng không áp dụng khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự là thiếu sót. Tại khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự qui định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.
- Bản án số 03 ngày 17/01/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử Nguyễn Ngọc A và đồng bọn phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “T tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. phần bồi thường dân sự bản án nêu: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu mà bị cáo không chịu thi hành thì phải chịu lãi xuất theo lãi suất nợ quá hạn do ngân hàng nhà nước qui định tương ứng với số tiền chậm trả”. Phần quyết định này của bản án là trái với khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự (Tại phiên tòa giữa bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có thỏa thuận gì khác).
Tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự qui định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
- Bản án số 26 ngày 06/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử đối với bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Giết người”, bị cáo bồi thường được 3,2 triệu đồng trên tổng số 53,2 triệu đồng phải bồi thường (6,01%) nhưng Hội đồng xét xử cho bị cáo Nguyễn Văn S được hưởng tình tiết giảm nhẹ “bồi thường thiệt hại” qui định tại điểm a, khoản 4 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 là chưa phù hợp.
Bản án số 26 ngày 06/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh xét xử đối với bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Giết người”, phần nhận định không phù hợp với phần quyết định của bản án, cụ thể: Phần nhận định ghi cần buộc bị cáo phải trợ cấp nuôi dưỡng mỗi tháng 500 ngàn đồng; nhưng phần quyết định lại buộc bị cáo phải trợ cấp mỗi tháng 200 ngàn đồng; phần nhận định cần bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần khoảng 40 triệu đồng, nhưng quyết định lại buộc bồi thường 50 triệu đồng.
Nguyên nhân của những vi phạm, thiếu sót trên là do Thẩm phán Tòa án chưa nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật để áp dụng giải quyết các vụ án hình sự. Công tác kiểm tra rút kinh nghiệm nghiệp vụ của Lãnh đạo đối với cấp dưới chưa được tiến hành thường xuyên.
Để đảm bảo cho công tác xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh được thực hiện đúng quy định của pháp luật, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Hà Tĩnh kiến nghị: Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, trong phạm vi trách nhiệm của mình có biện pháp chỉ đạo chấn chỉnh, khắc phục không để lặp lại các vi phạm, thiếu sót như đã nêu trên.
Kiến nghị trên của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã được chấp nhận.

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP