Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, ông Phan Văn Ninh và bà Hoàng Thị Hương trình bày: Năm 2000, gia đình ông Ninh bà Hương được UBND xã Hương Giang, huyện Hương Khê giao cho 1,2ha đất rừng thuộc lô 23, khoảnh 1, tiểu khu 214 tại xã Hương Giang theo dự án IFAD;năm 2003, Sở Tài nguyên- Môi trường tỉnh Hà Tĩnh lập bản đồ lâm nghiệp thì diện tích cụ thể là 18.410m 2 , thuộc thửa số 140, tờ bản đồ số 3. Gia đình ông Ninh sử dụng, sản xuất ổn định từ năm 2000 đến năm 2011 thì có tranh chấp với ông Võ Văn Tâm. Diện tích tranh chấp khoảng 1 ha, có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Lộc, phía Tây giáp đất ông Tịnh, phía Nam giáp đất ông Tâm, phía Bắc giáp đất ông Hiển. Nay, ông Ninh bà Hương khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc ông Tâm trả lại diện tích đất đã lấn chiếm cho ông, bà.
Bị đơn, ông Võ Văn Tâm và bà Nguyễn Thị Tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng: Diện tích đất rừng ông bà đang sử dụng là của ông Tâm được ông Võ Thiết Sỹ chuyển nhượng lại cho 12,22 ha đất rừng tại tiểu khu 2/4, khoảnh 1 thuộc Rú Mỏ- Khe Vôi, xã Hương Giang, huyện Hương Khê nên không có việc ông bà lấn chiếm đất như nguyên đơn trình bày.
Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST ngày 09/4/2019 của TAND huyện Hương Khê tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Võ Văn Tâm và bà Nguyễn Thị Tuyên trả lại diện tích 10.783m 2 đất đang tranh chấp cho ông Phan Văn Ninh và bà Hoàng Thị Hương sử dụng.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ một cáchđầy đủ,khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ để làm rõ nội dung tranh chấp, vi phạm cácquy định tạiĐiều 97 và Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể:
+ Về xác định vị trí đất tranh chấp:
- Theo bản đồ thiết kế trồng rừng năm 2000 thì đất tranh chấp thuộc lô số 23, khoảnh 1, tiểu khu 214 có diện tích 1,2 ha. Theo bản đồ đất lâm nghiệp đo đạc năm 2003 và sổ mục kê kèm theo thì diện tích đất tranh chấp thuộc lô số 140, tờ bản đồ số 3, có diện tích 18.410m 2 . Tờ bản đồ số 83 lập năm 2015 thể hiện lô số 31 (ông Ninh đang sử dụng) có diện tích 8.370,1m 2 ; lô số 34 (ông Tâm đang sử dụng) có diện tích 30.342,7m 2 .Theo tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thì diện tích đất tranh chấp nằm cả lô 31 và lô 34, tiểu khu 214. Mặc dù kết quả đo đạc của 3 bản đồ như đã nêu trên, thế nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định ranh giới, tứ cận, sự thay đổi số lô, sự biến động về diện tích của từng lô đất; việc bàn giao đất trên thực địa cho hộ gia đình ông Phan Văn Ninh và ông Võ Văn Tâm của cấp có thẩm quyền.
- Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ( nội dung thẩm định, sơ đồ kèm theo biên bản thẩm định ngày 11/7/2017), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác định 10.783m 2 đất đang tranh chấp giữa các đương sự thuộc lô số 31 hay lô số 34 hay thuộc cả hai lô;nếu thuộc cả lô số 31 và lô số 34 thì diện tích tranh chấp thuộc mỗi lô là bao nhiêu m 2 ;nằm ở vị trí nào của lô 31 và lô 34; thuộc tiểu khu 214 hay tiểu khu 209?
- Bản án sơ thẩm xác định chưa chính xác ranh giới, tứ cận thửa đất tranh chấp với các tài liệu liên quan: Nội dung đơn khởi kiện, ông Phan Văn Ninh yêu cầu ông Võ Văn Tâm trả đất và sơ đồ kèm theo biên bản thẩm định ngày 11/7/2017 xác định đều xác định tứ cận diện tích đất tranh chấp: phía Bắc giáp đất ông Hiển, phía Đông giáp đất ông Tịnh, phía Nam giáp đất ông Tâm, phía Tây giáp đất ông Ninh đang sử dụng; phần quyết định của bản án sơ thẩm xác định: phía Đông giáp đất anh Võ Văn Tâm đang sử dụng, phía Tây giáp đất ông Lê Thanh Tịnh, phía Bắc giáp đất ông Lê Xuân Hiển, phía Nam giáp đất ông Võ Văn Tâm đang sử dụng.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ranh giới, tứ cận diện tích đất tranh chấp không thống nhất; không xác định chính xác vị trí diện tích đất tranh chấp thuộc lô, khoảnh, tiểu khu nào mà đã buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 10.783m 2 là hoàn toàn không có căn cứ.
+ Về diện tích đất thực tế sử dụng và diện tích đất tranh chấp: Theo kết quả thẩm định tại chỗ, diện tích đất thực tế ông Phan Văn Ninh đangsử dụng không có tranh chấp là 9.380m 2 (diện tích theo tờ bản đồ 83 năm 2015 là 8.370,1m 2 ),Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông Võ Văn Tâm lấn chiếm của ông Phan Văn Ninh 10.783m 2 . Như vậy, tổng diện tích đất nguyên đơn đang sử dụng và bị lấn chiếm là 20.163m 2 , trong khi diện tích nguyên đơn được giao sử dụng năm 2000 chỉ là 12.000m 2 , sổ mục kê bản đồ năm 2015 là 18.410m 2 . Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ về việc tăng diện tích đất nêu trên đã xác định ông Võ Văn Tâm lấn chiếm của ông Phan Văn Ninh 10.783m 2 là chưa đủ căn cứ.
Ngoài ra, việc xác định giá trị tài sản trên đất tranh chấp được thực hiện ngày 18/7/2017 khi cây keo mới 6 tháng tuổi có giá trị 13.900 đồng/cây; tổng trị giá tài sản là 37.557.800 đồng/ 2.702 cây. Tại thời điểm xét xử (sau 01 năm 08 tháng), giá trị kinh tế của tài sản đã có sự thay đổi nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lấy giá trị tài sản năm 2017 để làm căn cứ giải quyết vụ án là không thỏa đáng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Mặt khác, bản án sơ thẩm tuyên xử buộc bị đơn ông Võ Văn Tâm phải trả lại diện tích 10.783m 2 cho nguyên đơn ông Phan Văn Ninh, nhưng không tuyên cụ thể diện tích đất tranh chấp thuộc lô, khoảnh, tiểu khu nào sẽ gây khó khăn cho công tác tổ chức thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án không tuyên nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với các đương sự, cũng như không nêu rõ trong bản án về nghĩa vụ chậm thi hành án là vi phạm điểm c khoản 2 Điều 266 BLTTDS,khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ tài chính- Bộ tư pháp- Viện KSND tối cao- Tòa án ND tối cao hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Từ vụ án trên, Viện KSND tỉnh (Phòng 9) thông báo để Viện KSND các huyện, thị xã, thành phố rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án cùng cấp./.
PHÒNG 9 – VKSND TỈNH