Phòng 1A Viện kiểm sát thành phố được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về trật tự xã hội. Năm 2013, Phòng đã thụ lý kiểm sát điều tra: 131 vụ/236 bị can, Cơ quan điều tra đã giải quyết: 90 vụ/145 bị can (đạt tỷ lệ 66,4%). Viện kiểm sát thụ lý 75 vụ/151 bị can, đã giải quyết: 74 vụ/145 bị can (đạt tỷ lệ 99%). Trong đó có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, điển hình là vụ giết người, chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đ/c Cao Lâm Khánh - Trưởng phòng 1A VKSND Thành phố Hải Phòng
Ngày 05/01/2012, Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng tổ chức cưỡng chế thu hồi 19,3 ha đất bãi bồi ngoài đê biển quốc gia thuộc địa bàn xã Vinh Quang, Tiên Lãng, Hải Phòng thì bị Đoàn Văn Vươn cùng các đồng phạm dựng hàng rào; dùng mìn tự tạo, bình ga, súng hoa cải tấn công tổ công tác số 3 làm nhiệm vụ bảo vệ và rà phá bom mìn, hậu quả làm một số thành viên của tổ công tác bị thương làm giảm từ 01 đến 43% sức lao động.
Ngày 09/01/2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố các bị can để điều tra. Ngày 31/12/2012 Kiểm sát viên nhận được hồ sơ và bản kết luận điều tra vụ án,ngày 04/01/2013, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã ban hành Cáo trạng số 10/CT - P1A truy tố các bị canĐoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Vệ về tội giết ngườiquy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự; các bị can Phạm Thị Báu, Nguyễn Thị Thương về tội chống người thi hành công vụ quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 257 Bộ luật hình sự.
Từ 02/4/2013 đến hết ngày 05/4/2013, Tòa án nhân dân thành phố đã đưa vụ án ra xét xử. Hội đồng xét xử đã tuyên phạt các bị cáo Đoàn Văn Vươn 5 năm tù, Đoàn Văn Quý 5 năm tù, Đoàn Văn Sịnh 3 năm 6 tháng tù, Đoàn Văn Vệ 2 năm tù về tội Giết người; tuyên phạt các bị cáo Phạm Thị Báu (tức Hiền) 18 tháng tù cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách; Nguyễn Thị Thương 15 tháng tù cho hưởng án treo, 30 tháng thử thách.
Kết quả xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử tuyên y án đối với các bị cáo Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý; Phạm Thị Báu (tức Hiền); Nguyễn Thị Thương; giảm án đối với các bị cáo Đoàn Văn Sịnh từ 3 năm 6 tháng tù xuống 2 năm 9 tháng tù; bị cáo Đoàn Văn Vệ từ 2 năm tù xuống 19 tháng tù.
Thông qua công tác giải quyết vụ án trên, Phòng 1A rút ra được một số kinh nghiệm sau:
1- Công tác kiểm sát nắm, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
Ngay sau khi nhận dược tin báo về việc cưỡng chế dẫn đến hậu quả các đối tượng sử dụng mìn tự tạo, súng bắn đạn hoa cải bắn lại lực lượng cưỡng chế làm bị thương 07 đồng chí xảy ra vào sáng ngày 05/01/2012 tại Vinh Quang, Tiên Lãng, xác định đây là vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, ảnh hưởng đến dư luận quần chúng nhân dân, nên phòng 1A đã báo cáo các đồng chí lãnh đạo Viện xin ý kiến chỉ đạo, sau đó trực tiếp đồng chí Phó Viện trưởng phụ trách khối cùng đồng chí Trưởng phòng 1A đã tham gia khám nghiệm hiện trường, nắm tình hình. Trên cơ sở nắm chắc diễn biến nội dung vụ việc đã phân công Kiểm sát viên kết hợp cùng Cơ quan điều tra tiến hành ghi lời khai các đối tượng ngay từ ban đầu củng cố chứng cứ, xác định tội danh, phân loại diện khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các bị can.
Do làm tốt công tác phối kết hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra ngay từ giai đoạn kiểm sát tin báo tội phạm ngay nên đã đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn theo đúng quy định của pháp luật.
2- Việc thành lập tổ công tác và cử Kiểm sát viên thụ lý KSĐT- KSXX
Ngay sau khi khởi tố vụ án, khởi tố các bị can áp dụng biện pháp ngăn chặn, dư luận đặc biệt quan tâm, các bị can và gia đình các bị can có đơn từ gửi đến các Cơ quan pháp luật kiến nghị, kêu oan, các cơ quan thông tấn báo chi vào cuộc, Thủ Tướng chính phủ có ý kiến chỉ đạo các cơ quan pháp luật thành phố sớm điều tra, làm rõ. Lãnh đạo Viện và lãnh đạo Phòng xác định đây là vụ án phức tạp, nhạy cảm vì vậy đã quyết định thành lập tổ công tác do một đồng chí Phó Viện trưởng phụ trách trực tiếp chỉ đạo, đồng chí Trưởng phòng và 01 đồng chí Kiểm sát viên có kinh nghiệm tiến hành kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử.
Quá trình Kiểm sát điều tra Kiểm sát viên được phân công đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc tiến độ điều tra, trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ kịp thời ban hành các yêu điều tra yêu cầu Điều tra viên điều tra, nội dung các yêu cầu đều được Điều tra viên thực hiện đảm bảo việc điều tra diễn ra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Quá trình nghiên cứu hồ sơ phát hiện nhiều vấn đề cần được làm rõ, Kiểm sát viên đã kịp thời báo cáo đồng chí lãnh đạo cho đường lối giải quyết, như: thẩm quyền điều tra vụ án vừa có người bị hại trong quân đội, vừa có người bị hại ngoài quân đội; về thủ tục người bào chữa theo đúng quy định tại khoản 2, Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự đối với các bị can phạm tội giết người, đối với các bị can bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ có đơn xin đề nghị mời 08 Luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi, về thu thập chứng cứ thương tích đối với 02 bị hại là quân đội, tiến hành trưng cầu giám định đối với những vật chứng đã thu giữ gồm: kíp mìn, thuốc nổ, bình ga, súng bắn đạn hoa cải.., bổ sung biên bản hiện trường, thực nghiệm điều tra việc làm mìn tự tạo, nhận dạng đồ vật thu giữ gồm khẩu súng bắn đạn hoa cải, bình ga, kíp mìn, dây điện, bình ắc quy... do đó trong quá trình điều tra đảm bảo việc củng cố chứng cứ chắc chắn đối với tội danh đã khởi tố đối với các bị can.
3. Trong công tác phối hợp
Xác định công tác phối hợp để: “đảm bảo vụ án được điều tra một cách khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật; tránh việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng; tránh việc có quan điểm khác nhau về tội danh, khoản áp dụng giữa các cơ quan điều tra - truy tố - xét xử”. Do đó trong quá trình điều tra Kiểm sát viên và Điều tra viên đã có sự phối hợp chặt chẽ, các yêu cầu của Kiểm sát viên đều được Điều tra trao đổi, bàn bạc cùng thực hiện, tài liệu điều tra của vụ án được Điều tra viên thu thập đều được chuyển cho Kiểm sát viên để nghiên cứu, trên cơ sở đó thống nhất đánh giá, nếu có vướng mắc chưa được giải quyết Kiểm sát viên và Điều tra viên báo cáo lãnh đạo hai ngành để thống nhất chỉ đạo.
Phối hợp trong giai đoạn kết thúc điều tra: Kiểm sát viên cùng Điều tra viên tiến hành tổng cung đối với các bị can, việc tổng cung có cả Luật sư tham gia, đây là tài liệu, chứng cứ quan trọng để Kiểm sát viên lập cáo trạng truy tố và bảo vệ quan điểm truy tố. kết quả của công tác phối hợp này là khi hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát chỉ trong vòng 05 ngày Viện kiểm sát đã ban hành bản Cáo trạng truy tố chuyển hồ sơ đến Tòa án đề nghị đưa vụ án ra xét xử, quan điểm của Viện kiểm sát thống nhất với Cơ quan điều tra về tội danh và diện truy tố.
Phối hợp trong giai đoạn xét xử giữa Kiểm sát viên và Thẩm phán phải có sự trao đổi, trù bị, dự kiến các tình huống phát sinh tại phiên tòa, dự thảo luận tội, đề cương xét hỏi, dự thảo Kịch bản xét xử, trên cơ sở phối hợp giữa Thẩn phán và Kiểm sát viên sau đó báo cáo xin ý chỉ đạo lãnh đạo hai cơ quan. Do có sự phối hợp tốt trong công tác chuẩn bị xét xử nên vụ án đưa ra xét xử đảm bảo khách quan, đúng người, đúng tội.
Trên cơ sở kết quả điều tra các đồng chí lãnh đạo hai cơ quan thường xuyên trao đổi thông tin, cùng nhau thống nhất bàn biện pháp giải quyết những khó khăn, vướng mắc thuộc phạm vi của mình. Đối với những vấn đề khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết cùng nhau báo cáo lãnh đạo hai ngành phối hợp giải quyết.
4- Thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên
Tuyệt đối chấp hành nguyên tắc Thủ trưởng chế trong ngành Kiểm sát, Kiểm sát viên được giao kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án chịu trách nhiệm trước lãnh đạo phòng, lãnh đạo Viện kiểm sát thành phố. Viện trưởng Viện kiểm sát thành phố chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về toàn bộ công tác kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án.
- Quá trình điều tra: KSV đã kịp thời báo cáo tiến độ điều tra, những khó khăn, vướng mắc xin ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Viện thành phố và lãnh đạo Vụ nghiệp vụ, trên cơ sở các ý kiến chỉ đạo Kiểm sát viên kịp thời triển khai, thực hiện đảm bảo vụ án được điều tra một cách toàn diện, đúng quy định của pháp luật.
- Quá trình truy tố: Trước khi ban hành bản cáo trạng Kiểm sát viên đã báo cáo xin ý kiến Uỷ ban kiểm sát, xin ý kiến tập thể lãnh đạo Viện thành phố; báo cáo xin ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Quá trình xét xử: Trước khi xét xử Kiểm sát viên báo cáo công tác chuẩn bị, dự kiến mức án áp dụng xin ý kiến Uỷ ban kiểm sát, tập thể lãnh đạo Viện thành phố; báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Viện kiểm sát tối cao.
5. Tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy
Đối với những vụ án phức tạp, vụ án được dư luận quan tâm thì theo Quy chế phải báo cáo cấp ủy xin ý kiến chỉ đạo. Chính vì vậy trong quá trình giải quyết vụ án trong các giai đoạn: khởi tố điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, kết thúc điều tra, truy tố, dự kiến xét xử, xin mức án áp dụng đối với các bị cáo Kiểm sát viên và lãnh đạo Phòng, lãnh đạo Viện tuyệt đối tuân thủ Quy chế và thường xuyên báo cáo xin ý kiến sự chỉ đạo của Thành ủy.
Do có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các đồng chí lãnh đạo thành phố cũng như lãnh đạo Viện kiểm sát tối cao về chuyên môn, nghiệp vụ nên không có việc trả hồ sơ để điều tra giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vụ án đã được điều tra, truy tố, xét xử một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật, tạo được sự đồng thuận của dư luận quần chúng nhân dân.
6. Kinh nghiệm trong việc thành lập tổ tư vấn:
Quá trình giải quyết vụ án Lãnh đạo Viện đã thành lập một tổ tư vấn gồm những đồng chí có nhiều kinh nghiệm để giúp cho tổ giải quyết án kịp thời xử lý những tình huống phát sinh trước, trong phiên tòa.
Kinh nghiệm này đã phát huy được hiệu quả một cách cao nhất, thông qua sự tư vấn của tổ tư vấn các vấn đề khó khăn đều được kịp thời giải quyết. Đặc biệt trong quá trình xét xử tại phiên tòa, các Kiểm sát viên không thể nắm bắt một cách đầy đủ, toàn diện diễn biến tại phiên tòa, các câu hỏi, câu trả lời của những người tham gia tố tụng, vì vậy khi có sự tham gia tư vấn của tổ tư vấn giúp cho các Kiểm sát viên xử lý các tình huống một cách tốt nhất.
7. Kinh nghiệm trong việc phát ngôn với báo chí
Các cơ quan báo chí luôn luôn quan tâm và bằng mọi cách tiếp cận để lấy được những thông tin mới nhất để đăng tải, do đó nếu không có kinh nghiệm trong việc phát ngôn thì dễ dẫn đến việc các cơ quan ngôn luận đăng tải những nội dung ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án Lãnh đạo Viện đã quán triệt mọi phát ngôn liên quan đến vụ án và việc cung cấp thông tin tài liệu phải tuân thủ theo đúng Luật báo chí và do đồng chí Chánh Văn phòng là người phát ngôn.
Trên đây là một số kinh nghiệm rút ra qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều, kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án Đoàn Văn Vươn cùng các đồng phạm về tội giết người, chống người thi hành công vụ./.
Cao Lâm Khánh – Trưởng phòng 1A VKSND Thành phố