Quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự tại phiên tòa sơ thẩm: Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án. Tuy nhiên, trong thời gian qua tình trạng Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội hay cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội nhưng đến cấp phúc thẩm lại tuyên bố bị cáo không phạm tội vẫn còn xảy ra, gây mất lòng tin của nhân dân với cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và với Kiểm sát viên trực tiếp thực hành quyền công tố tại phiên tòa nói riêng. Vì vậy, việc nâng cao năng lực luận tội, tranh luận của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự tại phiên tòa sơ thẩm là cần thiết, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Để hoàn thành những nhiệm vụ trên mỗi Kiểm sát viên phải tự tu dưỡng, rèn luyện, nghiên cứu, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Toàn cảnh Kiểm sát viên tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Khi trình bày lời luận tội Kiểm sát viên phải thể hiện vị trí là người thực hành quyền công tố tại phiên tòa, từ lời nói, đến cử chỉ, đến hành động phải được luật hóa, luôn ở tư thế tấn công trấn áp tội phạm, ứng xử đúng ngôn từ, không nên rụt rè, khiêm tốn và tự đặt mình vào một vị trí không bị lệ thuộc hay thấy phiên tòa đông người tham dự mà cho rằng mình đang trình bày với họ vì vậy:
Trong phần mở đầu có Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa nên chỉ “Thưa Hội đồng xét xử”, chứ không phải “kính thưa” và không thể “thưa người tham dự phiên tòa”, vì Kiểm sát viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định cho nên không thể dùng từ “xin phát biểu” mà chỉ nêu “tôi phát biểu quan điểm”….
Có trường hợp, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhưng nghiên cứu hồ sơ không kỹ nên khi trình bày lời luận tội còn túng túng, trình bày thiếu lô-gíc, làm cho người nghe khó hình dung ra nội dung mà Kiểm sát viên đang trình bày. Lẽ ra khi nêu các chứng cứ buộc tội thì phải nêu cho hết, cho thật biện chứng, rồi tiếp đến khẳng định tội danh mà cáo trạng đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nhưng đang trình bày chứng cứ lại xen các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hoặc lẽ ra nói hết các tình tiết tăng nặng rồi mới nói đến các tình tiết giảm nhẹ, thì lại nêu tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đan xen với nhau. Hoặc sau khi đề xuất quan điểm giải quyết vụ án, rồi mới nêu phần công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và phòng ngừa tội phạm, thì lại đưa phần tuyên truyền vào trước phần đề xuất quan điểm giải quyết vụ án… Có trường hợp Kiểm sát viên trình bày lời luận tội nhưng nêu nguyên văn phần diễn biến vụ án như cáo trạng đã nêu làm cho người nghe không cảm nhận được nên không thể thuyết phục được người nghe.
Có thể nói, luận tội có ý nghĩa pháp lý và chính trị rất lớn; phần trình bày lời luận tội của Kiểm sát viên thường được sự quan tâm chú ý theo dõi đặc biệt của những người tham dự phiên toà và công chúng. Xét về tính chất pháp lý thì luận tội của Kiểm sát viên chính là công cụ để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố của Nhà nước tại phiên toà. Để bản luận tội có chất lượng tốt thì cùng với việc phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trước khi tham gia phiên toà để chuẩn bị dự thảo luận tội, Kiểm sát viên phải hết sức chú ý theo dõi để nắm được toàn bộ diễn biến của phiên toà; tích cực, chủ động tham gia xét hỏi, ghi chép đầy đủ các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để sửa đổi, bổ sung, cập nhật vào nội dung của luận tội. Một vấn đề cần lưu ý là phải phân biệt giữa nội dung của luận tội với nội dung của cáo trạng. Luận tội là văn bản pháp lý, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án hình sự trên cơ sở kết quả hoạt động điều tra và quyết định truy tố bị can ra trước toà án để xét xử. Việc đối đáp của Kiểm sát viên trong quá trình tranh luận chủ yếu là đưa ra những lập luận để phản bác những ý kiến không phù hợp của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác về luận tội của Kiểm sát viên. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 thì kết quả tranh luận có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải quyết vụ án của hội đồng xét xử. Việc phán quyết của hội đồng xét xử phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Đó là những quan điểm cơ bản mang tính định hướng về phương pháp luận mà kiểm sát viên cần nắm vững để vận dụng trong quá trình tranh luận.
Về yêu cầu đối với Kiểm sát viên khi tranh luận, trước hết phải khẳng định tranh luận là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định mà kiểm sát viên có nghĩa vụ phải thực hiện. Mục đích chủ yếu của tranh luận là nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, bảo vệ tính có căn cứ và hợp pháp của các quan điểm mà VKS đã truy tố. Tuy nhiên, nếu qua điều tra tại phiên toà mà thấy một số quan điểm trong cáo trạng không phù hợp thì kiểm sát viên có quyền thay đổi quan điểm. Điều đó cũng có nghĩa là Kiểm sát viên không bảo vệ quan điểm truy tố một cách thiếu căn cứ. Cơ sở để Kiểm sát viên thực hiện việc luận tội và tranh luận là phải dựa vào các quy định của pháp luật và các chứng cứ khách quan đã được kiểm tra tại phiên toà để đưa ra quan điểm và bảo vệ quan điểm của mình. Mặt khác, để bảo đảm tính thuyết phục khi tranh luận, ngoài việc dựa vào các quy định của pháp luật và chứng cứ đã được kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên còn phải dựa vào quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh, phòng chống tội phạm để vận dụng một cách phù hợp. Bản chất hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự là làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án nhằm góp phần cùng với hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm. Như vậy, tranh luận của Kiểm sát viên không chỉ là buộc tội mà cần phải chú ý cả vấn đề gỡ tội. Tranh luận, không phải là vấn đề thắng thua, mà để làm rõ các tình tiết của vụ án, góp phần cùng hội đồng xét xử đánh giá đúng bản chất sự việc. Vì, chỉ trên cơ sở nhận thức đúng về bản chất của tranh luận mới giúp cho Kiểm sát viên xác định đúng đắn nhiệm vụ của mình khi tham gia tranh luận. Từ đó, cần nêu cao trách nhiệm trong việc thực hiện đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định, có thái độ và cách ứng xử phù hợp, tránh tư duy cứng nhắc, bảo thủ, không xem xét, đánh giá đầy đủ kết quả điều tra công khai tại phiên toà dẫn đến những sai lầm.
Muốn nâng cao năng lực của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự; trước hết, mỗi Kiểm sát viên phải tích cực nghiên cứu, học tập để nắm vững các quy định của pháp luật, nhất là pháp luật về hình sự, về tố tụng hình sự, các luật có liên quan, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật; nắm vững các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm. Thường xuyên rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ về tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm như kỹ năng trình bày bản luận tội, kỹ năng diễn đạt, đối đáp trôi chảy, khả năng phản xạ linh hoạt trước các nội dung mới phát sinh tại phiên toà. Phải thể hiện sự ứng xử có văn hoá trong thái độ, trong cách xưng hô tại phiên toà, bảo đảm tôn trọng sự điều khiển của chủ toạ phiên toà, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng nhất là những người tham gia tranh luận với mình. VKSND cần quan tâm sơ kết rút kinh nghiệm hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên, nếu có điều kiện nên tổ chức các cuộc thi về tranh luận tại phiên toà để phổ biến kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực, kỹ năng tranh luận. Kiểm sát viên phải thường xuyên tự mình đánh giá lại kết quả hoạt động sau mỗi phiên toà, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc những thiếu sót, chú ý lắng nghe các ý kiến góp ý của dư luận, của đồng nghiệp và của công chúng với thái độ cầu thị để không ngừng hoàn thiện hơn kỹ năng nghiệp vụ của mình trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự nói chung cũng như việc trình bày luận tội, tham gia tranh luận của kiểm sát viên tại các phiên toà hình sự sơ thẩm nói riêng./.
Thanh Nghị
Nguồn : http://www.tapchikiemsat.org.vn