Vấn đề trích, viện dẫn điều luật qui định nhiều tội (tội“gép”) trong các tội phạm về ma túy
16:27 08/11/2016

Trong thời gian qua, việc trích, viện dẫn điều luật qui định nhiều tội (tội gép) về các tội phạm về ma túy trong Bộ luật hình sự còn tùy tiện, thiếu thống nhất. Các văn bản hướng dẫn của Vụ THQCT – KSĐT án ma túy (trước đây là Vụ 1C nay là Vụ 4) cũng còn có quan điểm khác nhau.

Năm 2013-2014, Viện kiểm sát các địa phương thống nhất thực hiện truy tè hµnh vi nµo th× chỉ trÝch dÉn tội Êy theo hướng dẫn tại C«ng v¨n số 374 ngµy 28.11.2012 cña Vô 1C.

Ngày 28.11.2013, Vụ 1C lại ban hành Công văn số 4258/VKSTC-V1C(P3) rút kinh nghiệm ban hành Cáo trạng của VKS các tỉnh miền Trung. Tại điểm 2 rút kinh nghiệm, Công văn ghi: “ Có Cáo trạng trích dẫn điều luật không chính xác đối với hành vi phạm tội của bị can đã khởi tố, điều tra, truy tố. Ví dụ Cáo trạng truy tố bị can về tội Mua bán trái phép chất ma túy hoặc Vận chuyển trái phép chất ma túy nhưng lại trích dẫn tội danh của tất cả các tội gép trong điều 194 BLHS là không đúng với hành vi phạm tội ”. Như vậy Công văn này đã nhắc nhở các đơn vị thực hiện đúng hướng dẫn tại C«ng v¨n số 374 ngµy 28.11.2012 cña Vô 1C.

Tuy nhiên ngày 18.11.2014 Vụ 1C ban hành Thông báo số 811/TB-VKSTC-V1C  về việc rút kinh nghiệm xây dựng Cáo trạng của VKS các cấp, tại điểm thứ ba, mục 3: “ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng bản Cáo trạng ghi: “Nên viện dẫn toàn bộ điều của BLHS được áp dụng, sẽ toàn diện, đầy đủ và đáp ứng được quy định tại điểm e khoản 2 điều 49 BLTTHS về quyền tự bào chữa của bị can; và Giới hạn của việc xét xử qui định tại điều 196 BLTTHS ”.

Tiếp đó Công văn số 3411/VKS-V4 ngày 1.9.2015 của Vụ 4 về việc kiểm tra lại cáo trạng số 20 ngày 20.7.2015 của VKSND tỉnh Khánh Hòa ghi : “Phần kết luận của Cáo trạng nêu các bị can phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy được qui định tại điểm b khoản 3 điều 194 BLHS và chỉ trích dẫn điểm b khoản 3 điều 194 BLHS mà không trích dẫn khoản 1 điều 194 là điều luật thể hiện nội dung, cấu thành cơ bản của tội Mua bán trái phép chất ma túy” .

Như vậy vấn đề đặt ra trong 3 trường hợp, đó là:

- Trích dẫn điều luật như thế nào trong trường hợp bị can bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm gép về ma túy?

- Trích dẫn điều luật như thế nào trong trường hợp bị can bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 (cấu thành cơ bản)?.

- Trích dẫn điều luật như thế nào trong trường hợp bị can bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung tăng nặng?.

Theo chúng tôi, thứ nhất : Việc trích dẫn điều luật cần thực hiện theo C«ng v¨n số 374 ngµy 28.11.2012 và Công văn số 4258/VKSTC-V1C(P3) ngày 28.11.2013 của Vụ 1C. Hành vi phạm tội nào thì chỉ trích dẫn tội phạm ấy, nếu viện dẫn nguyên văn điều luật như Thông báo số 811/TB-VKSTC-V1C ngày 18.11.2014 thì dẫn đến Quyết định truy tố cả những hành vi (tội) không truy tố. Việc trích dẫn hành vi phạm tội nào thì chỉ trích dẫn tội phạm đó không ảnh hưởng gì đến điểm e khoản 2 điều 49 BLTTHS về quyền tự bào chữa của bị can và giới hạn của việc xét xử qui định tại điều 196 BLTTHS.

Mặt khác Thông tư liên tịch số 17 ngày 24.12.2007 của Liên ngành Trung ương cũng qui định: “Trường hợp một người chỉ thực hiện một trong các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh về hành vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.

Ví dụ: một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 195 của BLHS”. (Không trích dẫn toàn bộ điều luật).

- Thứ hai nếu Cáo trạng truy tố theo Khoản 1 thì chỉ trích dẫn hành vi cụ thể bị truy tố theo điều luật tương ứng.

Ví dụ truy tố bị can về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Khoản 1 điều 194 BLHS thì trích: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

- Thứ ba nếu Cáo trạng truy tố theo khoản tăng nặng thì chỉ trích dẫn hành vi cụ thể bị truy tố theo khoản, điều luật tương ứng, để phù hợp với hướng dẫn trên đây của Vụ 1C. (không trích nguyên văn khoản 1 điều luật như Công văn số 3411/VKS-V4 ngày 1.9.2015 của Vụ 4- chỉ ghi cấu thành cơ bản của tội phạm).

Ví dụ truy tố bị can về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm đ, Khoản 2, Điều 194 BLHS thì trích:

Người nào mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

đ) Mua bán qua biên giới.

…………

Trên đây chỉ là quan điểm cá nhân dựa trên các văn bản hướng dẫn của cấp trên, đề nghị VKSNDTC (Vụ 4) cần thống nhất hướng dẫn để các địa phương thực hiện đúng qui định của BLHS, BLTTHS.

Phạm Hải – Phòng 1

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP