Thông qua kiểm sát xét xử vụ án Hôn nhân gia đình phúc thẩm, giữa nguyên đơn anh Đinh Thái Cường, sinh năm 1975 và bị đơn chị Nguyễn Thị Hằng, sinh năm 1983. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh thấy quá trình giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án dẫn đến bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy án, cụ thể:
1. Nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm:
Anh Đinh Thái Cường và chị Nguyễn Thị Hằng kết hôn với nhau ngày 02/02/2009, trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng bố mẹ chồng tại xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm nên chị Hằng nhiều lần bỏ về quê ngoại sau đó được gia đình anh Cường đón về, nhưng cuộc sống vợ chồng vẫn không hạnh phúc. Đầu năm 2015 chị Hằng ra ở khu tập thể Trường phổ thông trung học Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân, từ đó vợ chồng chấm dứt quan hệ tình cảm. Xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn nên anh Cường làm đơn xin ly hôn chị Hằng. Vợ chồng có 02 con chung là Đinh Đức Phú (sinh ngày 20/10/2009) và Đinh Gia Huy (sinh ngày 08/4/2011). Hiện cháu Phú đang ở với anh Cường, còn cháu Huy đang ở với chị Hằng. Nếu ly hôn thì mỗi người nuôi một con, không bên nào phải cấp dưỡng. Theo anh Cường vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chị Nguyễn Thị Hằng, cho rằng: Vợ chồng có 01 ngôi nhà xây trên đất của ông Đinh Văn Thệ (bố anh Cường), nhà làm từ năm 2009 đến nay chưa xong, trị giá ngôi nhà hiện tại khoảng 900 triệu đồng, tiền làm nhà do vợ chồng bỏ ra, gồm: tiền anh Cường đi làm ăn ở nước ngoài đem về trước khi cưới, tiền mừng đám cưới, tiền hai bên gia đình cho. Vì vậy chị yêu cầu chia tài sản chung theo quy định pháp luật.
Bản án sơ thẩm số 45/2016/HNGĐ - ST ngày 18/5/2016 Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, áp dụng khoản 1 điều 199 BLTTDS; điều 56, điểm b khoản 2 điều 59; khoản 1 điều 61; khoản 4, khoản 5 điều 70; điều 81, 82, 83 Luật HNGĐ năm 2014; khoản 1 điều 17 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014, xử:
1. Về quan hệ vợ chồng:Cho anh Đinh Thái Cường được ly hôn với chị Nguyễn Thị Hằng;
2. Về con chung: Giao cháu Đinh Đức Phú cho anh cường trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Đinh Gia Huy cho chị Hằng trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Ngôi nhà 02 tầng xây trên thửa đất số 62, tờ bản đồ số 02 tại thôn Lam Thủy- xã Xuân Giang- huyện Nghi Xuân- tỉnh Hà Tĩnh, giấy CNQSDĐ số 936752 cấp ngày 10/10/1998 mang tên ông Thệ thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Đinh Văn Thệ. Buộc ông Đinh Văn Thệ hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hằng 150 triệu đồng tương đương công sức đóng góp của chị Hằng vào ngôi nhà.
Ngoài ra còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự
Ngày 16/6/2016, Viện KSND tỉnh Hà Tĩnh ban hành Kháng nghị số 31/QĐKNPT - VKS đối với bản án sơ thẩm số 45/2016/HNGĐ - ST ngày 18/5/2016 Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, đề nghị cấp phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm về phần chia tài sản chung.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
1- Về tố tụng:
Quá trình giải quyết vụ án, anh Đinh Thái Cường và ông Đinh Văn Thệ trình bày nguồn tiền để xây nhà có công sức đóng góp của chị Đinh Thị Bích Thủy (con gái ông Thệ). Chị Nguyễn Thị Hằng cũng thừa nhận quá trình xây nhà, chị Thủy cho 30 triệu đồng. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa chị Đinh Thị Bích Thủy vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bỏ sót người tham gia tố tụng - Vi phạm khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
2 - Về nội dung giải quyết:
Về quan hệ tài sản: Chị Nguyễn Thị Hằng trình bày tháng 6/2009 vợ chồng xây một ngôi nhà trên đất của ông Đinh Văn Thệ (bố anh Cường), đến nay chưa hoàn thành, ngôi nhà hiện trị giá khoảng 900 triệu đồng, tiền làm nhà là tiền anh Cường đi làm ở nước ngoài đem về trước khi cưới, tiền mừng đám cưới, tiền hai bên gia đình cho, chị Hằng yêu cầu chia tài sản chung theo quy định pháp luật. Còn anh Đinh Thái Cường và ông Đinh Văn Thệ trình bày: Ngôi nhà là của ông Đinh Văn Thệ, tiền làm nhà là tiền của anh Cường đi làm ở nước ngoài đem về cho ông trước khi anh Cường lấy chị Hằng, tiền ông Thệ tiết kiệm và tiền chị Đinh Thị Bích Thủy (con ông Thệ) đóng góp, vì vậy anh Cường và ông Thệ không đồng ý định giá ngôi nhà và không chấp nhận yêu cầu của chị Hằng về chia tài sản. Tại phiên tòa, ông Thệ vắng mặt, còn chị Nguyễn Thị Hằng và anh Đinh Thái Cường thỏa thuận ngôi nhà đang tranh chấp trị giá 600 triệu đồng nên Hội đồng xét xử chấp nhận giá thỏa thuận giữa anh Cường và chị Hằng để làm căn cứ giải quyết việc tranh chấp về tài sản.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào sự thỏa thuận giá trị ngôi nhà giữa anh Cường và chị Hằng để tiến hành chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn trong khi chưa tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ mức đóng góp của mỗi bên trong việc xây dựng ngôi nhà là chưa khách quan. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Văn Thệ nhưng lại căn cứ vào giá thỏa thuận của chị Hằng và anh Cường tại phiên tòa để làm cơ sở phân chia tài sản tranh chấp mà không có ý kiến và sự thỏa thuận của ông Đinh Văn Thệ (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án) là chưa đảm bảo căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 và Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn thi hành điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự về định giá tài sản và thẩm định giá tài sản, thì: Các bên đương sự tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản; người tham gia thỏa thuận về xác định giá tài sản phải là đương sự; các bên tham gia thỏa thuận phải hoàn toàn tự nguyện; việc thỏa thuận phải được lập thành văn bản, có chữ ký các bên tham gia thỏa thuận.
Ngày 19/8/2016, tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát đề nghị và Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, hủy một phần bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm nêu trên. Vậy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thông báo để các đơn vị rút rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình, nhằm nâng cao công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự./.
Hiền Mai – P9