Một số vấn đề rút kinh nghiệm đối với vụ án hành chính bị cấp phúc thẩm hủy án để giải quyết lại
15:29 11/08/2016

Thông qua kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hành chính do ông Trần Văn Dương, bà Trần Thị Lương khởi kiện đối với quyết định hành chính trong công tác quản lý nhà nước về đất đai của UBND huyện Nghi Xuân, nhận thấy quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm trong việc thu thập, xác định chứng cứ, dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan, không có căn cứ. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã thông báo để rút kinh nghiệm chung trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, cụ thể như sau:

Nội dung vụ án và kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm

Ông Trần Minh Tiến và bà Trần Thị Tiến sinh được 6 người con là Trần Minh Nam (chết năm 2013), Trần Thị Lương, Trần Thị Phượng, Trần Văn Dương, Trần Thái Bình, Trần Thị Minh. Vợ chồng ông  tạo dựng được thửa đất diện tích 991m 2 thuộc thửa số 113, tờ bản đồ số 01, tại khối 3 thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đã được UBND huyện Nghi Xuân cấp Giấy CNQSD đất số A067847 ngày 19/12/1989, mang tên bà Trần Thị Tiến. Sau khi đã chuyển nhượng một phần thửa đất, diện tích còn lại khoảng 528,6m 2 ông bà sử dụng.

Năm 2000, bà Trần Thị Tiến chết, không để lại di chúc. Năm 2006, thửa đất trên được UBND huyện Nghi Xuân cho phép tách thành 2 thửa là thửa số 99, tờ bản đồ số 25, diện tích 231m 2 , được cấp Giấy CNQSD đất số AD 205596 ngày 15/5/2006, mang tên anh Trần Minh Nam và chị Đào Thị Hiền; thửa thứ hai số 100, tờ bản đồ số 25, diện tích 278m 2 được cấp Giấy CNQSD đất số AD 205597 ngày 15/5/2006 mang tên ông Trần Minh Tiến. Năm 1014, ông Trần Minh Tiến đã tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa số 100 cho chị Đào Thị Hiền. Ngày 15/9/2014, UBND huyện Nghi Xuân đã cấp Giấy CNQSD đất số  BU965119 đối với thửa đất này cho chị Đào Thị Hiền.

Chị Lương và Anh Dương trình bày : họ chỉ biết được việc UBND huyện Nghi Xuân cấp các Giấy CNQSD đất nói trên cho ông Trần Minh Tiến, anh Trần Minh Nam, chị Đào Thị Hiền vào tháng 4/2015, khi nhờ văn phòng Luật sư Vinh Diện và cộng sự phô tô hồ sơ liên quan.

Chị Lương, anh Dương cho rằng thửa đất trên có nguồn gốc là của cha mẹ, đã được UBND huyện Nghi Xuân cấp Giấy CNQSD đất mang tên mẹ là bà Trần Thị Tiến vào năm 1989. Năm 2000 bà Tiến mất không để lại di chúc nên  phần di sản của bà Tiến để lại là ½ diện tích 528,6m 2 của thửa đất số 113, tờ bản đồ số 01 tại khối 3 thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Do đó việc vào năm 2006, UBND huyện Nghi Xuân cho phép tách thửa đất nói trên thành 2 thửa  (số 99 và 100) và cấp Giấy CNQSD đất cho ông Trần Minh Tiến, anh Trần Minh Nam và chị Đào Thị Hiền khi chưa có ý kiến của các đồng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của bà Nguyễn Thị Tiến là trái với quy định của pháp luật, xâm phạm  tới quyền lợi của các đồng thừa kế khác của bà Tiến. Do đó, đã khởi kiện yêu cầu TAND huyện Nghi Xuân giải quyết :

- Hủy một phần Quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân về việc cấp Giấy CNQSD đất số AD 205597 cho ông Trần Minh Tiến và Giấy CNQSD đất số AD 205596 cho anh Trần Minh Nam, chị Đào Thị Hiền.

- Hủy Quyết định số 1789/QĐ-UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân về việc thu hồi và cấp Giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất và Giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số BU 965119 ngày 15/9/2014 cấp cho chị Đào Thị Hiền.

Liên quan việc cấp Giấy CNQSD đất nói trên, Chị Đào Thị Hiền trình bày: Tháng 1/1990, bố mẹ chồng cắt và cho vợ chồng chị khoảng 230m 2 trong thửa đất của bố mẹ để làm nhà ở riêng, vợ chồng chị đã  xây dựng ngôi nhà hai tầng kiên cố trên phần đất được cho và sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1990 đến nay. Năm 2000, mẹ chồng mất không để lại di chúc. Năm 2001, bố chồng  triệu tập các con họp mặt để giải quyết việc thờ cúng và phân chia tài sản- di sản. Tại cuộc họp này toàn thể gia đình đã thống nhất: Phần diện tích đất ở mà bố mẹ đã cho trước đây được giữ nguyên, vợ chồng chị toàn quyền sử dụng, định đoạt. Phần diện tích còn lại do bố chồng  toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.  Năm 2006, gia đình chị và bố chồng đã được cấp giấy CNQSD đất đối với các phần đất nói trên.Tháng 9/2014, chị được bố chồng tặng cho quyền sử dụng 278m 2 đất tại thửa số 100, tờ bản đồ số 25 và chị đã được UBND huyện cấp giấy CNQSD đất đối với thửa đất đó .

Ông Trần Minh Tiến và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác ( là các con của ông bà Tiến)  cho rằng gia đình chưa tổ chức cuộc họp nào để phân chia đi sản thừa kế là phần đất nói trên của bà Trần Thị Tiến cho bất kỳ ai.

Bản án sơ thẩm số 01/2016 ngày 14/1/2016 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân đã quyết định:

- Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu của người khởi kiện hủy một phần Giấy CNQSD đất số AD 205596 ngày 15/5/2006 của UBND huyện cấp cho ông Trần Minh Nam và bà Đào Thị Hiền đối với thửa đất số 99, tờ bản đồ số 25, diện tích 231m 2 tại khối 3 thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu của người khởi kiện hủy một phần Giấy CNQSD đất số AD 205597 ngày 15/5/2006 của UBND huyện cấp cho ông Trần Minh Tiến đối với thửa đất số 100, tờ bản đồ số 25, diện tích 278m 2 tại khối 3 thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bác yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn Dương và chị Trần Thị Lương về yêu cầu hủy quyết định số 1789/QĐ-UBND về việc thu hồi và cấp giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU965119 do UBND huyện Nghi Xuân cấp ngày  15/9/2014 cho chị Đào Thị Hiền ».

- Ngày 26/1/2016, anh Trần Văn Dương và chị Trần Thị Lương có đơn kháng cáo đối với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân.

- Trong các ngày 17/5/2016 và 23/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm, đã quyết định hủy bản án sơ thẩm số 01/2016 ngày 14/1/2016 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm :

Về tố tụng : Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, có một số tài liệu là bản phô tô, không được công chứng, chứng thực hợp lệ nhưng vẫn được Tòa án huyện Nghị Xuân tiếp nhận, đánh số bút lục đưa vào hồ sơ và sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 76 Luật TTHC năm 2010. Trong đó có các tài liệu quan trọng là Biên bản họp gia đình ngày 1/5/2001 là bản phô tô, không có công chứng hợp lệ mà chỉ được ông Trần Minh Tiến và chị Trần Thị Minh xác nhận; Thư của anh Trần Văn Dương gửi ông Tiến ; Bản di chúc của ông Tiến ngày 16/6/2012 , bản di chúc ngày 26/6/2012 , bản di chúc của ông Tiến lập năm 2013 sau ngày giỗ bà Tiến.

Về nội dung giải quyết vụ án có các vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau :

Thứ nhất: Bản án sơ thẩm đã căn cứ các tài liệu nói trên để nhận định: « ít ra chị Lương, anh Dương và mọi người trong gia đình ông Tiến đã biết được việc UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tiến là vào năm 2012 chứ không phải như anh Dương và chị Lương trình bày là tháng 4/2015 », từ đó khẳng định thời hiệu khởi kiện của anh Dương, Chị Lương đối với Quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân đã hết và quyết định Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu của người khởi kiện về yêu cầu hủy một phần Quyết định nói trên. Tuy nhiên, các tài liệu mà Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng đều là bản phô tô không được công chứng, chứng thực hợp lệ nên không có giá trị để làm chứng cứ giải quyết vụ án. Tuy ông Tiến và chị Minh có ký xác nhận vào bản phô tô biên bản họp gia đình ngày 01/5/2001, nhưng họ đều là đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án nên việc xác nhận không đảm bảo tính khách quan, hơn nữa biên bản họp gia đình này không được các đương sự còn lại trong vụ án thừa nhận, bản thân ông Tiến cũng đã rút lại ý kiến xác nhận của mình.

Mặt khác, về nội dung của tất cả các tài liệu nêu trên đều không đề cập đến việc năm 2006 UBND huyện Nghi Xuân đã có quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 về việc cấp Giấy CNQSD đất số AD 205597 cho ông Trần Minh Tiến; Giấy CNQSD đất số AD 205596 cho anh Trần Minh Nam, chị Đào Thị Hiền. Anh Trần Văn Dương, chị Trần Thị Lương không phải là đối tượng  tác động trực tiếp của Quyết định số 339/QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghị Xuân, do đó, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011, hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính: “ b) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định đó ”  nên việc anh Dương, chị Lương trình bày họ biết được Quyết định nói trên khi nhờ văn phòng luật sư Vinh Diện và cộng sự phô tô hồ sơ liên quan vào tháng 4/2015 là có căn cứ, vì vậy đến thời điểm anh Dương, chị Lương nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án ( ngày 16/6/2015) thì thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân  vẫn còn.

Do đó lập luận của Tòa án cấp sơ thẩm là thiếu cơ sở, quyết định của bản án sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu cầu của người khởi kiện là không có căn cứ.

Thứ hai : Bản án sơ thẩm cũng đã căn cứ vào biên bản họp gia đình ngày 01/5/2001 để xác định rằng phần di sản của bà Tiến để lại đã được các thành viên trong gia đình thống nhất giao cho ông Tiến, nên ông có toàn quyền và nghĩa vụ đối với khối tài sản này, do đó, việc ông Tiến tặng cho tài sản ( Quyền sử dụng đất ) cho chị Đào Thị Hiền là hợp pháp và bác yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn Dương và chị Trần Thị Lương về yêu cầu hủy quyết định số 1789/QĐ-UBND về việc thu hồi và cấp giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU965119 do UBND huyện Nghi Xuân cấp ngày 15/9/2014 cho chị Đào Thị Hiền. Nhưng, như đã nêu ở phần trên, Biên bản họp gia đình ngày 01/5/2001có trong hồ sơ vụ án không có giá trị chứng cứ nên quyết định của bản án sơ thẩm là không có cơ sở.

Thứ ba: Bản án sơ thẩm giải quyết không đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự. Cụ thể: Người khởi kiện yêu cầu: Hủy một phần Quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân về việc cấp Giấy CNQSD đất số AD 205597 cho ông Trần Minh Tiến, cấp Giấy CNQSD đất số AD 205596 cho anh Trần Minh Nam, chị Đào Thị Hiền. Nhưng bản án sơ thẩm đã tuyên: Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu của người khởi kiện hủy một phần Giấy CNQSD đất số AD 205596 ngày 15/5/2006 của UBND huyện cấp cho ông Trần Minh Nam và bà Đào Thị Hiền; Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu của người khởi kiện hủy một phần Giấy CNQSD đất số AD 205597 ngày 15/5/2006 của UBND huyện cấp cho ông Trần Minh Tiến mà không đề cập đến yêu cầu hủy một phần Quyết định số 339 QĐ/UB ngày 15/5/2006 của UBND huyện Nghi Xuân.

Với các vi phạm như trên của Tòa án cấp sơ thẩm, Viện KSND tỉnh đã đề nghị HĐXX phúc thẩm áp dụng  khoản 3 Điều 205 Luật TTHC năm 2010, hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung

Phan Hòa - P10

    Ý kiến bạn đọc


    ĐĂNG NHẬP